Vạn vật có 2 kiểu dinh dưỡng là tự dưỡng và dị dưỡng. Thực vật nói chung và cây trồng nói riêng là sinh vật tự dưỡng vì chúng tự tạo nên được dinh dưỡng cho mình thông qua việc cố định khí CO2 của không khí dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời.
Chất có thể biến năng lượng của ánh sáng để cố định CO2 thành chất đường bột là chất diệp lục, có màu xanh đặc trưng – xanh lá cây. Tuy nhiên, nếu không có các nguyên tố khoáng khác và nước có trong đất được hấp thu bởi hệ rễ thì dù cho ánh sáng dồi dào, cây cũng không thể tự dưỡng biến CO2 thành đường, bởi vậy có thể nói cây trồng có 2 hệ thống dinh dưỡng, là hệ rễ và hệ lá.
HỆ THỐNG DINH DƯỠNG LÁ
Muốn cố định được nhiều CO2 thì có 2 điều kiện tiên quyết là phải nhiều ánh sáng và nhiều lá. Trong cùng một giống và một điều kiện ngoại cảnh, thì diện tích lá sẽ tăng nếu kéo dài được tuổi thọ của lá, cho các lá đứng để ít che khuất nhau. Mặt khác phải hạn chế tối đa phần lá “ăn bám”, là những lá bị che trong tán, quang hợp không đáng kể nhưng vẫn sử dụng và tiêu hao dinh dưỡng.
Với lúa, kỹ thuật bón phân rất quan trọng vì nếu bón phân đúng thì sẽ kéo dài được thời gian xanh của các lá đòng và sẽ rất ít “lá ủ” ở gốc lúa nên hiệu quả quang hợp sẽ tăng, kéo theo việc tăng năng suất.
Với cây ăn quả, thì việc tỉa cành tạo tán cũng sẽ hạn chế lá bị che khuất. Mặt khác, tùy từng cây, từng giai đoạn cụ thể việc duy trì các chồi ngọn cũng sẽ có tác dụng hạn chế các chồi nách, qua đó sẽ hạn chế được “lá ăn bám”.
Ngoài ra, lá cũng còn có thể là con đường cung cấp các khoáng chất trong các trường hợp cây ở giai đoạn khủng hoảng dinh dưỡng, con đường hấp thu qua rễ không kịp thời hoặc là các khoáng vi lượng, việc hấp thu qua rễ bị thất thoát lớn.
HỆ THỐNG DINH DƯỠNG RỄ
Muốn hệ rễ hấp thu được nhiều khoáng và nước thì hệ rễ phải phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Với lúa, việc cày ải phơi đất là rất quan trọng vì nhờ vậy mà hệ rễ phát triển nhiều hơn, sâu hơn. Với cây trồng cạn việc phải xới xáo đất đễ cung cấp đủ ô xy cho rễ phát triển là điều kiện tiên quyết. Hệ rễ rất dễ bị tổn thương nếu gặp các điều kiện bất lợi như gặp đất phèn (các ion Fe ++, Al +++) hay bị ngộ độc hữu cơ.
Trên thực tế, khi bón phân đã có một lượng lớn phân bón bị thất thoát. Ngoài các yếu tố bất khả kháng, còn một số yếu tố khác có thể hạn chế nếu biết cách bón phân đúng.
+ Phải bón đúng vùng rễ: Diện tích vùng rễ phát triển theo hình chiếu của tán lá, trong đó phần rìa phía ngoài tập trung nhiều rễ con, nhiều lông hút nên khi bón phân phải đào rãnh theo hình tròn của hình chiếu tán lá.
+ Phải bón kèm với việc tưới nước, nhất là với phân lân vì nước sẽ hòa tan phân đưa phân tới vùng hút của rễ.
THẤT THOÁT PHÂN BÓN VÀ PHƯƠNG PHÁP HẠN CHẾ
Lượng phân bón thất thoát trong quá trình canh tác là rất lớn, nhất là lân, đạm và kali.
Với phân lân: Hiệu quả sử dụng phân lân rất thấp, thường chỉ đạt 25 – 30%. Phân lân thất thoát chủ yếu do bị keo đất giữ chặt, do anion HPO4 gặp phải các Cation Fe++, Al +++ sẽ biến thành các dạng khó tiêu, rễ không thể hấp thụ.
Có thể hạn chế tình trạng trên bằng cách đưa lân đến rễ nhưng không cho tiếp xúc với các cation Fe++, Al+++. Một màng mỏng có bán chất là một axít hữu cơ có tên là AVAIL được phát kiến bởi các nhà khoa học Mỹ đã được Cty CP Phân bón Bình Điền áp dụng trong sản phẩm DAP Đầu trâu P+.
Việc sử dụng các thành tựu khoa học hiện đại của thế giới không những mang lại hiệu quả cao cho người sử dụng mà còn giảm thiểu được ô nhiễm môi trường. Nhờ ưu việt đấy mà các sản phẩm của Bình Điền được tiêu thụ ngày càng nhiều, kể cả nội địa và xuất khẩu. |