Chat hỗ trợ
Chat ngay

CÁCH CHĂM SÓC BƯỞI DIỄN SAU THU HOẠCH ĐÚNG KỸ THUẬT GIÚP CÂY LUÔN SAI TRÁI

Bưởi diễn có thể ra hoa đậu quả kém và gây thất thu cho nhà vườn, nếu không có biện pháp chăm sóc bưởi diễn sau thu hoạch đúng kỹ thuật, nhất là thời điểm gặp điều kiện thời tiết bất lợi.


Bưởi diễn có thể ra hoa đậu quả kém và gây thất thu cho nhà vườn, nếu không có biện pháp chăm sóc bưởi diễn sau thu hoạch đúng kỹ thuật, nhất là thời điểm gặp điều kiện thời tiết bất lợi.

Trong quá trình chăm sóc bưởi diễn nếu bón phân không cân đối, bón quá dư đạm, để đất chua sẽ làm cho cây sinh nhiều cành lá rậm rạp, hoa ra không sai, tỷ lệ đậu quả thấp, tạo điều kiện cho bệnh và các loài sâu hại tấn công, quả chín không chắc, vỏ và cơm (thịt quả) nhão, nhiều nước, ăn nhạt, không thơm ngon.

Chăm sóc bưởi diễn sau thu hoạch

1. Cách tỉa cành tạo tán thông thoáng cho bưởi diễn

Nên thực hiện vào thời điểm ngay sau khi thu hoạch quả và sau các đợt bưởi ra lộc ổn định

Sau khi thu hoạch bà con khẩn trương cắt tỉa tạo tán thông thoáng, được tiếp xúc nhiều với ánh sáng (Mục đích: Tăng hiệu suất quang hợp và giảm trừ sâu, bệnh hại). Quá trình cắt tỉa cần đảm bảo các điều kiện:

  • Loại bỏ cành tăm, cành vượt, chành che tán, loại bỏ các cành lộc đông mới phát sinh phát triển.
  • Cắt tỉa đau, hạ thấp chiều cao cây, tán mở ở đỉnh.

Sau khi cắt tỉa tạo tán bà con dùng nước vôi đặc quét lên phần gốc cây, chiều cao đạt 80-100cm.

2. Cách làm cỏ cho bưởi diễn sau thu hoạch

Dọn sạch cỏ dại, loại bỏ nơi trú ngụ của côn trùng và sâu bệnh hại bưởi. Đặc biệt lưu ý làm sạch cỏ dại tại những vùng rễ cây phát triển. Những nơi đất đồi dốc phần ngoài tán có thể để lại cỏ (Mục đích: Hạn chế cạnh tranh dưỡng, giảm rửa trôi khi mưa, giữ ẩm cho đất…).

Nên thường xuyên dọn sạch cỏ dại bằng các chế phẩm sinh học hoặc sử dụng các biện pháp cơ giới. Không nên lạm dụng thuốc hoặc hóa chất độc hại để trừ cỏ vì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển bộ rễ của cây

3. Cách bón phân cho bưởi diễn sau thu hoạch

Việc bón phân cho bưởi diễn sau thu hoạch cực kỳ quan trọng. Nếu bón phân không đúng kỹ thuật sẽ ảnh hưởng đến khả năng ra rễ tôm, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng quả vụ sau.

Cây bưởi Diễn ưa đất trung tính hơi kiềm, có độ pH cao thường là 6 – 7. Để cây cho quả sai, quả chất lượng cao, dễ bảo quản và bán được giá, bà con cần áp dụng một loạt các biện pháp kỹ thuật tổng hợp, trong đó bón phân cân đối đáp ứng nhu cầu các chất đa – trung – vi lượng và kết hợp sử dụng các chế phẩm sinh học phun qua lá là rất quan trọng.

» Bước 1: Xử lý bộ rễ, cuốc rễ, làm đứt rễ phần ngoài tán

Cuốc xung quanh vùng rễ cây theo hình chiếu tán, làm đứt phần rễ tơ, phần rễ ngoài cùng của cây

Mục đích:
Làm giảm khả năng hút dinh dưỡng và nước từ đất lên các bộ phận trên mặt đất qua đó hạn chế hiện tượng phát sinh – phát triển lộc đông. 
Ngoài ra khi xử lý bộ rễ sẽ tạo điện kiện cho cây phát triển rễ tơ mới (loại bỏ rễ cũ thúc đẩy sinh trưởng rễ mới). Bộ rễ mới được thay thế một phần giúp cây tăng cường hiệu suất hấp thu dinh dưỡng, tăng độ ngọt quả ở vụ kế tiếp.

Xử lý bộ rễ trước khi bón phân

Các bước xử lý bộ rễ trước khi bón phân:

Cuốc sâu 20-30cm, rộng 30-40cm. Sau khi cuốc xong bà con không được tưới nước, để phơi từ 5-10 ngày cho khô kiệt đất phần xung quanh rễ.
Nếu tưới nước lúc này sẽ tạo ra nguy cơ bưởi diễn phát triển lộc đông.
Chỉ tưới nước khi cây đã qua ngủ nghỉ và tích lũy dinh dưỡng đủ dài (khoảng từ 30-45 ngày). Thông thường bà con nên tưới nước từ 15-25 tháng 12 âm lịch.

Vai trò của việc xử lý bộ rễ, cuốc rễ xung quanh vùng tán:

– Cải tạo đất, giúp đất tơi xốp tạo điều kiện thuận lợi cho rễ tơ (rễ mới) phát sinh – phát triển mạnh, hạn chế hiện tượng nghẹt rễ trong mùa mưa.
– Thay thế bộ rễ tơ cũ của năm trước bằng bộ rễ mới khỏe mạnh hơn, tăng cường sức đề kháng cho bộ rễ.
– Loại bỏ nguy cơ phát sinh – phát triển lộc đông (phần rễ tơ, rễ non nằm ở đỉnh sinh trưởng rễ thường có chứa hoóc môn trẻ hóa giúp cây tăng khả năng phát triển mầm chồi dinh dưỡng vì vậy chúng ta cần triệt tiêu).
– Việc xử lý rễ giúp cây chuyển sang trạng thái ngủ nghỉ đông, tích lũy dinh dưỡng chuẩn bị cho quá trình phân hóa mầm hoa.

Lưu ý chung trong quá trình xử lý rễ:

+ Trong quá trình xử lý rễ, phơi đất vùng rễ nếu gặp điều kiện thời tiết nắng hanh kéo dài, có biểu hiện héo lá nhẹ bà con cần tưới nước bổ sung (tưới nước duy trì).
+ Sau khi cuốc rễ, làm đứt rễ chúng ta vô tình tạo vết thương hở trên bộ rễ tạo điều kiện cho nấm khuẩn xâm nhiễm gây bệnh do đó bà con cần dùng các loại chế phẩm trừ nấm khuẩn an toàn cho bộ rễ để phun trực tiếp lên phần vừa xử lý làm đứt rễ (bà con có thể dùng Chế phẩm Trichoderma NANO để phun phòng trị nấm bệnh cho bộ rễ).

» Bước 2: Bón phân cho bưởi diễn

Lượng bón nhiều hay ít phụ thuộc vào đất, tuổi cây, thời điểm bón, cũng như tiềm năng năng suất giống, tập quán thâm canh của địa phương…

Cách bón phân cho bưởi diễn

Bón tháng 11- 12 (cơ bản): Đào rãnh xung quanh tán, trộn đều và bón theo rãnh đào rồi dùng đất lấp kín phân.

*Bón vôi:
Sau khi cuốc đất làm đứt rễ bà con nên phơi khô từ 5-10 ngày sau đó mới bón vôi. Bón vôi bột 1-2 kg/gốc.
Lượng vôi sử dụng nhiều hay ít phụ thuộc vào tuổi cây và độ chua của đất. Bưởi diễn phát triển thích hợp trên đất có pH = 6,5-7

*Bón phân: Sau khi bón vôi từ 5-10 ngày thì tiến hành bón phân
+ Bón phân hữu cơ đã ủ hoai mục với Nấm đối kháng Trichoderma NANO: Bón 30-50 kg/gốc
+ Bón phân NPK 5.10.3: Bón 0,5-2 kg/gốc tùy tuổi cây
+ Đậu tương nghiền nhỏ: 1-2,5 kg/gốc tùy tuổi cây

Hỗn hợp phân bón trên được bón rải đều lên hình chiếu tán (mép ngoài cây), khi bón cần được trộn đều với nhau và trộn đều với đất. Mục đích của việc bón phân sau thu hoạch là giúp cây sinh trưởng rễ tơ mới (bón nhử rễ ngoài tán), phục hồi sức sinh trưởng của cây sau mỗi vụ thu hoạch, cải tạo lý tính và sinh tính của đất, tăng cường sức đề kháng cho bộ rễ.
Sau khi bón phân xong bà con không được tưới nước, chỉ tưới nước bổ sung trong trường hợp thời tiết nắng hanh khô kéo dài và bộ lá có biểu hiện héo nhẹ.

Bón thúc lần 1 (đón hoa): Tháng 1 – 2 bón 40% lượng NPK 5.10.3 hoặc 16.6.16

Bón thúc lần 2 (thúc quả): Tháng 4 – 5 bón 30% lượng NPK.

Bón thúc lần 3 (thúc quả): Tháng 7 – 8 bón 30% lượng NPK.

Bón thúc lần 4: Tháng 9 – 10 mỗi gốc bón 1kg NPK 16.6.16 hoặc 2kg NPK 5.10.3 (chống nứt quả).

Bón qua lá: Sử dụng Phân bón sinh học VƯỜN SINH THÁI (100ml) pha với 200-300 lít nước phun định kỳ. Giúp cây cân bằng dinh dưỡng. Cứng cáp khỏe mạnh. Giảm thiểu sâu bệnh gây hại.

Cây trồng thường hấp thụ dinh dưỡng qua lá nhanh hơn qua rễ. Vì vậy để bưởi diễn ra hoa đậu trái nhiều, bà con cần sử Chế phẩm sinh học Vườn Sinh Thái phun qua lá vào thời kỳ trước khi ra hoa và thời kỳ đậu quả nhỏ, cách 7-10 ngày phun đều 1 lượt. Giúp bưởi diễn ra quả đồng đều, mã quả sáng đẹp và tăng chất lượng quả.

CẦN TƯ VẤN KỸ THUẬT LIÊN QUAN ĐẾN NẤM BỆNH HẠI VÀ QUY TRÌNH KỸ THUẬT VỀ CÂY TRỒNG

XIN MỜI BÀ CON GỌI ĐIỆN THOẠI VỀ SỐ 0982.427.033

KỸ THUẬT CHĂM SÓC CÂY BƯỞI SAU KHI THU HOẠCH DÀNH CHO BÀ CON NÔNG DÂN – AGRI THIÊN THUẬN – hoinongdan.vn

Hiện nay, cây bưởi so với các loại cây trồng khác thì có giá trị cao hơn gấp nhiều lần. Tuy nhiên để có được giá trị như vậy điều quan trọng là nông sản phải có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, sạch. Để cho vườn bưởi không bị giảm năng suất và không bị suy yếu. Thông thường sau mỗi mùa thu hoạch chúng ta phải chăm sóc để cây phục hồi trở lại.

1. Tỉa cành, tạo tán cây bưởi sau thu hoạch

Biện pháp tỉa cành tạo tán sau thu hoạch là một giải pháp kỹ thuật không thể thiếu nếu muốn có năng suất và sản lượng cho vụ sau.

Sau khi thu hoạch, bà con cắt bỏ triệt để những cành bị sâu bệnh, cành không mang trái, cành vượt và những cành có cuống quả mới thu hoạch.

Sau đợt lộc ổn định củng phải cắt bỏ những cành bị sâu bệnh, không có lá, cành nhỏ, cành vượt.

Lưu ý: Trước khi tỉa cành, tạo tán cần khử trùng dụng cụ bằng dung dịch Javel, nên cắt sát. Sau khi cắt tỉa bà con nên sử dụng Nano đồng để phun sát khuẩn nấm bệnh , rong rêu mảng bám trên thân, cành, lá. 

2. Bón phân:

Trước khi bón phân bà con xới nhẹ đất xung quanh tán. Sau đó rắc phân lên rồi tưới nước để giữ ẩm.

Bà con nên sử dụng phân bón hữu cơ đã ủ hoai mục bằng nấm đối kháng Trichoderma. Ngoài ra nên bổ sung dinh dưỡng vi lượng bằng phân bón lá giúp kích thích phát triển chồi, cân bằng dinh dưỡng.

Lượng phân bón tùy thuộc vào đất, độ tuổi của cây, thời điểm bón. Bà con lưu ý nên hạn chế sư dụng phân bón hóa học.

Sử dụng tàn dư thực vật, rơm rạ để ủ gốc, tưới nước và thoát nước tốt dể giữ đủ độ ẩm cho cây.

3. Tưới nước:

Bưởi là loại cây có múi rất cần nước, bà con phải đảm bảo nguồn nước sạch, không có mầm bệnh.

Bưởi cần tưới nước đầy đủ nhất là giai đoạn cây con và lúc cây ra hoa đậu trái. Mùa nắng nên tưới 2 lần vào sáng sớm và chiều mát. Vào mùa mưa cần có chế độ thoát nước tốt, tránh ngập úng kéo dài.

4. Phòng trừ sâu bệnh cho cây bưởi sau thu hoạch

Nếu muốn cây sinh trưởng khỏe mạnh thì việc phòng trừ sâu bệnh là việc cần thiết và cấp bách. Bà con cần thường xuyên thăm vườn để kịp thời phát hiện những dấu hiệu sâu bệnh hại ngay thời gian đầu để có hướng giải quyết kịp thời.
Bà con cần phải phun phòng cho cây bằng Chế phẩm trừ sâu sinh học như BT (Bacillus thuringiensi). Kết hợp với bổ dung dinh dưỡng qua lá bằng Acid amin để phòng trị bọ trĩ, nhện đỏ, sâu vẽ bùa, sâu đục trái… vào thời điểm cây ra lá non, trước khi cây ra hoa, trái nhỏ. Như vậy mới phòng trừ được bệnh cho cây cũng như tránh gây thiệt hại cho vườn.

LAZADA – PHÂN BÓN VIỆT NAM

Kỹ Sư Nông Học Tư Vấn Kỹ Thuật Miễn Phí 24/7

Hotline: 0933067033

Hotline: 0943025292

CHÚC CÁC BẠN THÀNH CÔNG

——————————————————————————

CÔNG TY TNHH VTNN VIỆT NAM NÔNG NGHIỆP SẠCH

Địa chỉ: Đường Nguyễn Trãi, Khu Dân Cư 4, Khu Phố Hiệp Tâm 2, Thị Trấn Định Quán, Huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai.

Chuyên Thuốc bvtv _ hạt giống_ dụng cụ nông nghiệp, phân bón 

Hỗ Tư vấn kỹ thuật tại vườn

Hotline: 0919.817.033

Zalo: 0919.817.033

Link web: https://kienthucnongnghiepvietnam.blogspot.com

Link web: https://vietnamnongnghiepsach.com.vn/

Link youtube 1: https://www.youtube.com/c/TrịBệnhChoCâyTrồng

Link youtube 2: https://www.youtube.com/c/KiếnThứcNôngNghiệp

CHĂM SÓC VƯỜN SẦU RIÊNG SAU THU HOẠCH: GIẢI PHÁP CHO NĂNG SUẤT ỔN ĐỊNH

Sau vụ mang trái, hiện nay một số vườn có biểu hiện suy kiệt, cháy lá, rụng lá nhiều, cây sinh trưởng kém thậm chí có một số cây bị chết chậm nhất là một số vườn đã bị nhiễm mặn trong mùa khô năm vừa qua. Nếu không có biện pháp chăm sóc kịp thời để cây nhanh chóng phục hồi sau thu hoạch thì cây sẽ không đủ sức cho trái năm sau.

Trước hết bà con cần biết những yếu tố tác động làm cây sầu riêng thường bị suy kiệt sau một vụ trái:

– Thứ nhất, hiện nay kỹ thuật xử lý cho sầu riêng ra hoa sớm trong mùa nghịch bằng cách phun hóa chất đã trở nên phổ biến và là biện pháp tương đối có hiệu quả. Tuy nhiên, do sản xuất sầu riêng sớm trái vụ đem lại hiệu quả kinh tế rất cao nên người dân đã quá lạm dụng việc kích thích cho sầu riêng ra hoa nghịch vụ mà quên đi hậu quả là có thể làm cây bị suy kiệt, thậm chí đưa đến chết cây. Ngoài ra, việc kích thích cây sầu riêng ra hoa khi cây còn nhỏ, không đủ tán lá cần thiết để nuôi trái hoặc phun hóa chất xử lý nhiều lần ở nồng độ cao hơn hướng dẫn cũng mang lại hậu quả trên.
 

– Thứ hai, nhiều nông dân áp dụng biện pháp xiết nước kết hợp với đậy mặt líp bằng nilon để tạo điều kiện khô hạn kích thích cho cây ra hoa. Tuy nhiên, khi gặp thời tiết không thuận lợi, có mưa nhiều làm độ ẩm đất trong vườn cao, cây không ra hoa được nên nông dân tiếp tục xiết nước trong thời gian dài, làm ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây. Ngoài ra, tưới nước cho vườn sầu riêng bằng máy nhưng không dùng búp sen mà phun trực tiếp lên mặt líp làm cho mặt đất bị “lèn”.
 

– Thứ ba, trong quá trình phát triển trái, nông dân thường sử dụng hóa chất để ức chế không cho sầu riêng ra đọt non nhằm tránh hiện tượng rụng trái non và trái bị sượng. Dẫu biết rằng đây là biện pháp cần thiết để tăng năng suất và phẩm chất trái sầu riêng, tuy nhiên cây sầu riêng dự trữ chất dinh dưỡng chủ yếu trong lá nên sự rụng nhiều lá (do phun thuốc ức chế sinh trưởng) làm giảm khả năng sinh trưởng của cây.
 

– Thứ tư, do đặc tính sầu riêng ra hoa nhiều và đậu trái cũng rất nhiều, việc để quá nhiều trái trên cây cũng dễ gây ra hiện tượng khô cành, làm cây bị mất sức, ảnh hưởng đến khả năng cho trái năm sau.
 

– Yếu tố cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, do tình trạng nhiễm mặn trong mùa khô đầu năm nên bộ rễ sầu riêng bị ảnh hưởng, cây hấp thu dinh dưỡng kém đưa đến cây dễ bị suy kiệt sau thời gian mang trái.

Biện pháp phục hồi:

– Tỉa cành tạo tán: sau thu hoạch là một giải pháp kỹ thuật không thể thiếu không chỉ tạo thông thoáng vườn cây, hạn chế sâu bệnh phát triển mà còn giúp cây nhanh phục hồi sức khỏe để cho năng suất vụ sau. Tiến hành cắt tỉa bỏ những cuống trái còn sót lại trên thân, tỉa bỏ các cành sâu bệnh, cành khô, cành ốm yếu, cành vượt che khuất ánh sáng và những cành mọc thấp hơn 1m kể từ mặt đất (để tránh bệnh nứt thân xì mủ). 
 

– Bón phân:
Đây là biện pháp rất quan trọng giúp cây hồi phục khả năng sinh trưởng sau thời gian mang trái cây thiếu dinh dưỡng trầm trọng, đồng thời cung cấp dinh dưỡng đầy đủ giúp cho cây ra đọt mới. Ngoài ra, đất trồng qua nhiều năm không được cung cấp phân hữu cơ, dẫn đến hiện tượng đất thiếu một số nguyên tố vi lượng mà nếu không bổ sung kịp thời sẽ dẫn đến năng suất giảm rõ rệt. 
Giai đoạn này cần bón nhiều đạm và lân, có thể bón phân theo công thức: 1/2 lượng Urea + 1/2 super lân + 1/4 lượng Kali (bón vùi phân trong phạm vi tán). Đồng thời, nên bổ sung phân hữu cơ nhằm mục đích cải tạo đất và tăng số lượng vi sinh vật có lợi trong đất giúp đất được tơi xốp và thông thoáng (sử dụng phân chuồng hoai mục với số lượng từ 10-12 tấn/ha). Ngoài ra, bón vôi (CaO) để làm giảm độ chua, cải thiện kết cấu của đất nhất là những vườn đã bị nhiễm mặn. Tùy theo độ PH của đất có thể bón vôi với liều lượng 0,5 tấn – 1 tấn/ha.
 

– Quản lý nước: Cần tưới đủ nước trong mùa khô nhưng cũng tạo điều kiện cho vườn thoát nước tốt trong mùa mưa vì trong điều kiện ngập úng các nấm có hại trong đất phát triển và tấn công bộ rễ sầu riêng làm rễ dễ bị thối. Nên giữ mực nước trong mương ổn định từ 60-80cm từ mặt líp trong suốt năm.
 

– Nông dân chú ý khi cho vụ trái năm sau chỉ kích thích ra hoa khi cây sầu riêng khỏe mạnh, cây có khả năng mang trái, có đủ đọt. Chỉ nên phun hóa chất xử lý ra hoa lúc thật sự cần thiết kết hợp với đậy gốc bằng nilon cho cây ra hoa tập trung và mở nylon khi hoa sắp nở. Nên để trái với số lượng vừa phải tùy theo giống, kích thước tán cây và tình trạng sinh trưởng của cây.

Quản lý sâu bệnh: 

– Trong mùa mưa cây thường ra đọt non nên thường xuyên thăm vườn nhằm sớm phát hiện các loại bệnh hại như bệnh thán thư, bệnh thối gốc chảy nhựa,… và côn trùng gây hại ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây.

– Bệnh thán thư là bệnh rất phổ biến trên sầu riêng. Bệnh do nấm Colletotrichum zibethinum gây ra, nấm bệnh gây hại chủ yếu trên lá. Vết bệnh bắt đầu từ rìa lá hay chót lá lan dần vào trong phiến lá, tạo thành những mãng cháy màu nâu đỏ, trên đó có những đường gợn sóng màu nâu thẫm, đặc trưng là những vòng đồng tâm. Giữa vết bệnh và phần xanh còn lại của lá có đường ranh giới rỏ rệt màu nâu. Bề mặt vết bệnh có những hạt nhỏ màu đen li ti là các ổ bào tử. Bệnh thường phát sinh trên lá già và lá bánh tẻ. Bệnh nặng cháy tòan bộ lá và rụng sớm, cây kém phát triển, nhất là khi cây còn nhỏ. Nấm tồn tại trên lá bệnh ở dạng sợi và bào tử. Bệnh gây hại quanh năm nhưng thường nặng trong mùa mưa, nhất là những ngày mưa dầm, ẩm độ không khí cao. Vườn trồng dày, thiếu chăm sóc cũng là điều kiện thuận lợi cho bệnh phát triển.

– Bệnh thối gốc chảy nhựa: thường phát sinh gây hại trên cây giai đoạn sau thu hoạch và thời điểm mưa nhiều. Bệnh do nấm Phytophthora  palmivora gây ra. Bệnh hại trên sầu riêng từ giai đoạn vườn ươm đến cây trưởng thành. Trên thân, thấy có nhựa chảy ra trên bề mặt vỏ cây, vết bệnh ướt một vùng như bị thấm nước và có màu nâu, nấm thường tấn công xung quanh gốc và các cành của cây sầu riêng. Lá chuyển màu vàng, rụng theo từng cành hay một phía của cây, bộ rễ bị thối. Khi cạo lớp vỏ bị bệnh ra thấy phần gỗ có màu nâu sẫm chạy dọc theo thân và cành. Nguồn bệnh có trong đất khi gặp điều kiện thuận lợi nấm sẽ phát triển và tấn công cây. Phát triển mạnh trong mùa mưa, ẩm độ cao, vườn khó thoát nước. Nấm bệnh lây lan qua côn trùng, con người, mưa gió.

– Bệnh đốm rong: Bệnh gây hại phổ biến trên sầu riêng nhất là trong mùa mưa. Bệnh do một loại tảo gây ra có tên là Cephaleuros virescenns. Bệnh thường gây hại trên thân, cành và lá. Trên lá, vết bệnh là những đốm tròn khoảng 3-5mm, mọc hơi nhô lên bề mặt lá, nhìn giống như một lớp nhung mịn, có màu xanh xám hoặc màu đỏ nâu, vết bệnh củ chuyển sang màu xám nâu. Khi gặp điều kiện thích hợp, vết bệnh lan rộng nhanh, có khi bằng đầu ngón tay, ở mặt dưới của đốm bệnh có thể thấy mô lá bị hoại và cả sợi tảo mọc xuyên qua có màu đỏ nâu.  Bệnh nặng, trên lá có rất nhiều đốm chi chít dày đặc, phủ kín mặt lá. Bệnh thường xuất hiện trên những lá đã trưởng thành.

Trên thân, cành, vết bệnh là những đốm nhỏ màu xanh, hình tròn hoặc hình bầu dục sau đó lớn dần thành từng mãng, có lớp tơ mịn màu xanh rêu. Bệnh gây hại trên lá, làm lá bị thô cứng, ảnh hưởng rất nhiều đến  khả năng quang hợp, cây còi cọc, sinh trưởng kém, gây hại trên thân, cành làm vỏ cây bị nứt và khô. Đây là loại đa ký chủ, ký sinh trên nhiều loại cây trồng. Bệnh phát triển mạnh ở những vườn trồng dày không thông thoáng, thiếu chăm sóc, vườn phun nhiều phân bón lá hoặc những vườn cây lớn tuổi. Trong mùa mưa, nhất là trong những tháng mưa bão liên tục là điều kiện thuận lợi cho bệnh đốm rong phát triển.

Biện pháp quản lý bệnh

Để quản lý các bệnh trên, nhà vườn nên áp dụng các biện pháp quản lý tổng hợp phòng là chính.

* Biện pháp canh tác

Nên chăm sóc cho cây phát triển khỏe mạnh, tưới nước đầy đủ trong mùa khô và thoát nước tốt trong mùa mưa.

Hàng năm sau thu hoạch nên vệ sinh vườn, cắt bỏ và tiêu hủy những cành già, lá già nhiễm bệnh, cành không có khả năng cho trái, để tạo thông thoáng vườn cây.

Trồng sầu riêng với mật độ vừa phải, hợp lý, không trồng quá dày.

Bón phân đầy đủ và cân đối, tránh bón thừa đạm và nhất là không phun phân bón lá định kỳ. Tăng cường bón phân hữu cơ để cải thiện đất, hạn chế các yếu tố bất lợi cho sự sinh trưởng của cây. Sử dụng chế phẩm sinh học Trichoderma bổ sung vi sinh vật có lợi trong đất.

* Biện pháp hóa học

Để phòng trừ bệnh thán thư sử dụng thuốc sinh học như Nano bạc đồng & Nano đồng oxyclorua với hiệu quả diệt nấm khuẩn sâu rộng chuyên tính. Nano bạc đồng & Nano đồng oxyclorua diệt được hầu hết các nhóm bệnh do nấm gây bệnh trên cây trồng, tại tất cả các bộ phận rễ, thân, lá, hoa, quả. 

Nano bạc đồng & Nano đồng oxyclorua không độc hại, không bị bay hơi, khi sử dụng không có mùi sốc khó chịu như các loại thuốc BVTV hóa học độc hại.

Nano bạc đồng & Nano đồng oxyclorua không gây ra tính kháng thuốc, nên có thể sử dụng định kỳ thường xuyên liên tục qua nhiều mùa vụ mà không cần phải thay thuốc.

Đối với tỷ lệ bệnh nặng bà con có thể sử dụng nhóm hoạt chất Propineb, Difenoconazole, Azoxystrobin,…

Đối với bệnh thối gốc chảy nhựa, nếu phát hiện thân, cành có nhựa ứ ra, dùng dao cạo sạch vết bệnh và quét thuốc vào, thực hiện vài lần cách nhau 10-15 ngày. Sử dụng nhóm thuốc có hoạt chất Fosetyl aluminium , Metalaxyl,…

Riêng bệnh đốm rong, khi bệnh phát triển dày đặc trên lá có thể phun Nano bạc đồng & Nano đồng oxyclorua, phun kép 2 lần cách nhau 2-3 ngày. Nếu bệnh trên thân, cành có thể sử dụng quét đặc dung dịch nano bạc đồng & nano đồng oxyclorua pha đậm đặc quét lên thân, cành. Trên những vườn thường xuyên bị nhiễm bệnh đốm rong có thể dùng vôi quét lên thân vào đầu mùa mưa và cuối mùa mưa để phòng ngừa bệnh.

Ngoài bệnh hại phát triển trong mùa mưa, giai đoạn sau thu hoạch sầu riêng thường bị  sâu đục vỏ thân phá hại. Loài côn trùng này gây hại chủ yếu trên thân sầu riêng. Trưởng thành là loài xén tóc (thuộc Bộ Cánh cứng, họ Xén tóc). Ấu trùng làm nhộng ngay trên vỏ cây. Xén tóc đẻ trứng lên vỏ cây sầu riêng, khi nở, ấu trùng chui qua vết nứt của vỏ cây và ăn lớp lype (ở giữa vỏ và gỗ), làm suy yếu và chết cây. Lúc đầu sâu ăn lớp vỏ bên ngoài, sau đó đục vào thân làm cây khô có thể đưa đến chết cây.

Biện pháp phòng trừ: Vệ sinh vườn tạo thông thoáng, tiêu hủy các cành bị nhiễm xén tóc để loại bỏ trứng, ấu trùng và nhộng của xén tóc. Thăm vườn thường xuyên khi thấy cây có triệu chứng bị xén tóc gây hại phải có biện pháp xử lý kịp thời. Dùng bả chua ngọt dẫn dụ và tiêu diệt xén tóc trưởng thành. Áp dụng biện pháp thủ công có hiệu quả cao, dùng dao nhỏ mũi nhọn khoét ngay lổ đục sẽ thấy sâu nằm bên trong, bắt ấu trùng và nhộng tiêu diệt hoặc dùng các nhóm thuốc có tính lưu dẫn hoặc xông hơi thấm bông gòn, nhét vào lổ đục và lấy đất sét trám bít lại, sau đó quét thuốc gốc Đồng để phòng các loại bệnh tấn công qua lổ đục. Nếu cây tơ, thấp có thể đào chung quanh gốc rãi thuốc trừ sâu lưu dẫn, sau đó lấp đất và tưới nước cho thuốc hòa tan. Không nên chặt lột vỏ để kích thích cây ra quả sẽ tạo điều kiện để xén tóc đẻ trứng.

Sầu riêng là cây ăn trái khó tính, kén đất nhưng có hiệu quả kinh tế cao song để vườn sầu riêng phát triển bền vững, năng suất ổn định, tuổi thọ kéo dài đòi hỏi nhà vườn phải có sự đầu tư, chăm sóc tỉ mỉ, bảo vệ cây trước những bất lợi tác động của con người và thời tiết cực đoan như hiện nay.

Để cho cây sầu riêng phát triển tốt và có khả năng cho trái ổn định lâu dài, nông dân nên theo đúng quy trình kỹ thuật, chăm sóc hợp lý, đặc biệt không khai thác quá mức khả năng cho trái của cây, nhất là trong điều kiện biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp như hiện nay.

CẦN TƯ VẤN KỸ THUẬT LIÊN QUAN ĐẾN NẤM BỆNH HẠI VÀ QUY TRÌNH KỸ THUẬT VỀ CÂY TRỒNG

XIN MỜI BÀ CON GỌI ĐIỆN THOẠI VỀ SỐ 0982.427.033

5 BƯỚC ĐỂ PHỤC HỒI CÂY SẦU RIÊNG SAU KHI THU HOẠCH

Từ lâu, sầu riêng đã trở thành loại cây ăn trái có giá trị kinh tế cao và được nhân rộng tại nhiều địa phương. Tuy nhiên, để cây vừa cho năng suất cao lại vừa phát triển một cách ổn định thì không hề dễ. Trong đó, việc chăm sóc để cây phục hồi sau những lứa thu hoạch là cực kỳ quan trọng. Hôm nay, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu 5 bước phục hồi quan trọng để giúp cây khỏe mạnh và phát triển một cách ổn định nhất nhé.

* Tại sao phải phục hồi cho sầu riêng?

Trong quá trình canh tác, nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, khả năng sinh trưởng và tuổi thọ của cây. Trong đó, các nguyên nhân sau đây gây tác động trực tiếp và ảnh hưởng lâu dài đến cây:

  • Xiết nước: Biện pháp xiết nước để tạo khô hạn, kích thích cây ra hoa đã và đang được áp dụng cực kỳ phổ biến trong việc trồng sầu riêng. Tuy nhiên, xiết nước và đậy mủ trong thời gian dài làm ảnh hưởng đến sinh trưởng, cây dần suy yếu và giảm tuổi thọ.
  • Kích thích ra hoa bằng hóa chất: Tình trạng xử lý ra hoa vụ nghịch bằng hóa chất hiện nay khá phổ biến. Mặc dù cho giá trị kinh tế cao, tuy nhiên việc lạm dụng hóa chất làm cây mất cân bằng tự nhiên, ảnh hưởng đến sinh trưởng và thậm chí là chết cây
  • Lạm dụng phân bón hóa học: Việc lạm dụng phân bón hóa học để cho kết quả nhanh sẽ mang đến nhiều tác động tiêu cực. Tác động trực tiếp nhất là làm đất trồng thoái hóa, hệ rễ cây kém phát triển và đặc biệt là làm mất đi hệ vi sinh tự nhiên trong đất. Làm cây có sức đề kháng kém với sâu bệnh và có khả năng ngộ độc trong thời gian dài.
  • Để nhiều trái trên cây:  Sầu riêng thường ra rất nhiều hoa và quả trong cùng một mùa vụ, ta thường để lại nhiều quả trên cây để có năng suất cao, tuy nhiên sau mùa vụ đó cây sẽ suy nhược và giảm sức sống đáng kể.
  • Nhiễm mặn mùa khô: Trong nhiều năm trở lại đây, tình hình nhiễm mặn, thiếu nước ngọt trong mùa khô đã tác động trực tiếp đến sức khỏe và khả năng hấp thu dinh dưỡng của sầu riêng.

Sau đây là 5 bước phục hồi quan trọng để giúp cây khỏe mạnh và phát triển một cách ổn định:

1/ Tỉa cành, tạo tán

Tỉa cành sầu riêng sau thu hoạch rất quan trọng, giúp vườn thông thoáng, hạn chế sâu bệnh hại, dinh dưỡng được tập trung để phục hồi cây đảm bảo năng suất vụ mùa tiếp theo. Đặc biệt đối với các vườn sầu riêng lâu năm thì việc cắt tỉa càng quan trọng hơn, hạn chế xì mủ thân cây phát sinh. Cắt tỉa cây bao gồm:

  • Cắt tỉa chồi dại, những cuốn còn lại ở trên thân.
  • Cắt bỏ cành sâu bệnh, cành già yếu, cành khô, cành vượt, cành khuất sáng.
  • Để hạn chế tối đa hiện tượng nứt thân, xì mủ. Sau khi thu hoạch bà con cần cắt bỏ các cành mọc dưới thấp (mọc thấp hơn 1m tính từ mặt đất lên).
  • Loại bỏ những cành mọc đứng hoặc mọc ngược vào bên trong tán, những cành nằm cách mặt đất thấp hơn 1m vì những cành này thường dễ bị sâu bệnh tấn công.

Durian Pruning | Kỹ Thuật Tỉa Cành Tạo Tán Sầu Riêng Giao Đoạn Cây 2 Năm Tuổi | Thịnh Sầu Riêng - YouTube

2/ Vệ sinh vườn

Sau khi thu hoạch nên tiến hành tổng vệ sinh vườn để hạn chế các mầm bệnh tồn dư. Dùng vôi bột pha nước quét xung quanh thân chính cây sầu riêng từ mặt đất lên khoảng 1m để phòng trừ sâu bệnh hại cây.

3/ Quản lý nguồn nước

Nước là yếu tố quan trọng quyết định khả năng phục hồi của cây sầu riêng sau thu hoạch. Nên duy trì mực nước ổn định từ 70 – 90cm.

Nhà vườn cần đảm bảo tưới đủ nước, nhưng vẫn phải đảm bảo vườn đủ thông thoáng để thoát nước tốt, tránh úng nước độ ẩm cao khiến nấm bệnh phát phát triển. Việc đảm bảo nguồn nước còn giúp cây hấp thụ tốt hơn các chất dinh dưỡng từ đó cây sẽ nhanh phục hồi.

4/ Quản lý sâu bệnh hại

Sầu riêng được phục hồi sau thu hoạch bà con cần chú ý thời điểm cây ra chồi, đọt non. Đây là thời điểm sầu riêng dễ bị  các loại bệnh hại tấn công: sâu ăn lá, rầy, thán thư…. Để nâng cao chất lượng, giá trị của sầu riêng bà con nên sử dụng các biện pháp sinh học, hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc BVTV.

5/ Bón phân

Sầu riêng sau khi thu hoạch sẽ cần được cung cấp dinh dưỡng để phục hồi, để cây nhanh chóng phục hồi đảm bảo năng suất cho vụ mùa tiếp theo bà con nên sử dụng phân hữu cơ, phân hữu cơ vi sinh. Phân hữu cơ ngoài việc cung cấp đầy đủ dinh dưỡng đa, trung vi lượng còn bổ sung lượng vi sinh cần thiết giúp cải tạo đất.

Trong đó, phân trùn quế là sản phẩm phù hợp và đã nhận được sự tin tưởng của nhiều bà con trong việc phục hồi và cải tạo đất trồng sầu riêng. Với nguồn gốc hoàn toàn hữu cơ nhưng vẫn đa dạng về các chất dinh dưỡng, phân trùn quế giúp cây trồng tăng sức đề kháng, bổ sung cho cây đa dạng các loại chất dinh dưỡng, giúp cây tăng phát triển hệ rễ, kích thích đâm chồi và đặc biệt là cải tạo đất trồng. Để biết thêm về cách áp dụng sản phẩm phân trùn quế cho sầu riêng, các bạn có thể tham khảo tại đây.

Lưu ý, khi bón phân cho cây sầu riêng nên bón theo tán cây và nên tạo rãnh để bón. Vừa giúp cây hấp thu hiệu quả mà lại hạn chế việc thất thoát phân.

Với 5 bước thực hiện nêu trên, vườn sầu riêng nhà mình sẽ được phục hồi sau một vụ mùa năng suất, ra nhiều đọt, cây khỏe, dự trữ dinh dưỡng và chuẩn bị tốt cho một mùa vụ tiếp theo.

CẦN TƯ VẤN KỸ THUẬT LIÊN QUAN ĐẾN NẤM BỆNH HẠI VÀ QUY TRÌNH KỸ THUẬT VỀ CÂY TRỒNG

XIN MỜI BÀ CON GỌI ĐIỆN THOẠI VỀ SỐ 0982.427.033

PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH VÀNG LÁ THỐI RỄ TRÊN NHÓM CÂY CÓ MÚI – AGRICULTURE HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM

Những năm gần đây, Cây có múi được xem là một trong những cây trồng mang lại giá trị kinh tế cao cho nhiều bà con nông dân, và vì vậy diện tích cây có múi ở Việt Nam hiện nay cũng tăng lên đang kể. Tuy nhiên, sự gia tăng về diện tích cũng như mật độ thâm canh khiến nhiều nhà vườn phải đối mặt với nhiều thách thức.

Một trong những thách thức lớn của nhiều nhà vườn hiện nay là bệnh Vàng lá thối rễ. Theo nhiều nhà vườn cho rằng, bệnh này đang phát triển nhanh chóng và rất khó kiểm soát khi phát hiện cây bệnh.

1. Tác nhân:
Bệnh vàng lá thối rễ do nhiều tác nhân gây ra, gồm các loài nấm Fusarium, Phytophthora, Pythium và Tuyến trùng. Trong đó, tác nhân chính là nấm Fusarium solani và Tuyến trùng. Tuyến trùng tấn công làm rễ tổn thương sau đó nấm Fusarium tấn công vào rễ cây thông qua vết thương hở của Tuyến trùng để lại.
2. Triệu chứng gây hại:
Trên lá:
     Lá bị vàng cả phiến lá và gân lá, có thể vàng một vài nhánh hay trên toàn cây, lá vàng dễ bị rụng. Chất lượng trái kém và bị rụng sớm.
 

BỆNH VÀNG LÁ THỐI RỄ 1

Trên rễ:
     Rễ bị sưng sau đó bị thối, khi đào rễ cây bị nhiễm bệnh quan sát rễ có mùi hôi và phần vỏ dễ bị tách khỏi phần lõi rễ.
 

BỆNH VÀNG LÁ THỐI RỄ

3. Biện pháp phòng trị: 
Thời điểm xử lý: Ngay khi bệnh xuất hiện, tưới 03 lần mỗi lần cách nhau 7 – 10 ngày hoặc khi thấy điều kiện thời tiết cho bệnh thuận lợi phát triển (từ mùa mưa chuyển sang mùa nắng hoặc từ mùa nắng sang mùa mưa) hay có thể phun ngừa mỗi lần xử lý ra đọt (tương ứng với các lần ra rễ mới)
Phương pháp xử lý:
– Phòng bệnh: Xử lý định kỳ 20 – 30 ngày/lần.
– Trị bệnh: Xử lý liên tục 4 – 5 lần, cách nhau 7 ngày. Sau đó, xử lý định kỳ 20 – 30 ngày/lần.

BÀ CON NÔNG DÂN PHỐI CẶP THUỐC AGRI FOS 700SOSIM 300SC

1.AGRI FOS 700

CLICK VÀO AGRI FOS 700  ĐỂ XEM CHI TIẾT SẢN PHẨM

AGRI-PHOS 700

2.SOSIM 300SC

SOSIM 300SC

CHÚC CÁC BẠN THÀNH CÔNG

——————————————————————————-
CÔNG TY TNHH VTNN VIỆT NAM NÔNG NGHIỆP SẠCH
Địa chỉ: Đường Nguyễn Trãi, Khu Dân Cư 4, Khu Phố Hiệp Tâm 2, Thị Trấn Định Quán, Huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai.
Chuyên Thuốc bvtv _ hạt giống_ dụng cụ nông nghiệp
Hỗ Tư vấn kỹ thuật tại vườn
Hotline: 0919.817.033
Link web: https://vietnamnongnghiepsach.com.vn/
Link youtube 1: https://www.youtube.com/c/TrịBệnhChoCâyTrồng
Link youtube 2: https://www.youtube.com/c/KiếnThứcNôngNghiệp

FANPAGE: KĨ SƯ CÂY TRỒNG TỈNH ĐỒNG NAI
Zalo và hotline đặt hàng: 0877552373

==> XEM THÊM BÀI VIẾT:

KỸ THUẬT LÀM HOA, TĂNG NĂNG XUẤT TRÊN CÂY CAM SÀNH – CÔNG TY TNHH HUY NGUYỄN AGRI

KHẮC PHỤC BỆNH BƯỚU RỄ TRÊN CÂY TRỒNG – CÔNG TY TNHH HUY NGUYỄN AGRI

PHÒNG TRỪ BỌ CẮT LÁ HẠI XOÀI VÀO MÙA MƯA

PHÒNG TRỪ BỌ CẮT LÁ HẠI XOÀI VÀO MÙA MƯA


Trong mùa mưa, xoài ra đọt non rất nhiều, đây cũng là nguồn thức ăn cho các đối tượng sâu bệnh hại. Trong đó, bọ cắt lá là côn trùng khá phổ biến. Hiện nay, trên các vườn xoài giai đoạn đọt non đang xuất hiện bọ cắt lá gây hại nặng.

bọ cắt lá hại xoài

Bọ cắt lá có tên khoa học là Deporaus marginatus thuộc Bộ cánh cứng Coleoptera, họ Bọ đầu dài Curculionnidae. Trưởng thành bọ cắt lá là một loài cánh cứng, con cái cơ thể dài khoảng 5mm có màu nâu vàng, nhiều lông, miệng kéo dài như một cái vòi. Râu đầu màu đen. Con đực nhỏ hơn con cái, vòi ngắn hơn, cánh cứng màu nâu, viền cánh màu đen. Cả con đực và con cái ở phần đầu và ngực đều có màu đỏ cam. Trứng hình bầu dục dài 0,5mm, màu trắng sữa đến vàng nhạt, được đẻ rải rác ở mặt dưới lá, dưới lớp biểu bì gần gân lá. Sâu non màu xanh đen, không chân, đẩy sức dài khoảng 5-6mm. Nhộng màu nâu, dài 5mm.

Trưởng thành đẻ trứng rải rác dọc theo gân lá non, trên một lá có từ 10-20 trứng. Sau khi đẻ xong bọ trưởng thành cắn đứt lá ngay phía trên các vị trí đẻ trứng, phần lá bị cắt mang theo trứng rơi xuống đất. Sâu non sau khi nở đục từ gân chính ra mép lá, ăn phần mô lá (lá đã rụng xuống đất) và chừa lại một lớp màng mỏng phía trên lá. Sâu đẩy sức hóa nhộng trong đất.
Trứng nở trong vòng 2-3 ngày, ấu trùng có 3 tuổi sống trong đường hầm trên lá trong vòng 7-8 ngày, nhộng 9-11 ngày. Bọ trưởng thành có thể sống và đẻ trứng kéo dài hàng tháng.
Triệu chứng nhận biết là đọt non xoài bị cắt đứt ngang, vết cắt rất sắc giống như lấy kéo cắt, phần lá cắt rơi xuống đất và để lại phần cuống lá trên cây rất điển hình để nhận biết. Bọ cắt lá trưởng thành gây hại trên đọt non, làm lá bị đứt ngang, cành non có thể bị trụi lá, ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của cây. Bọ cắt lá xuất hiện quanh năm, mật độ cao vào giai đoạn xoài ra đọt non.
* Biện pháp phòng trừ
– Thu gom và tiêu hủy các lá non bị cắn đứt rơi xuống đất để tiêu diệt trứng và ấu trùng nằm trong lá.
– Những vườn bị hại nặng nên cày xới đất ngay tán cây bị hại để diệt nhộng.
– Phun thuốc khi thấy bọ trưởng thành xuất hiện trong vườn. Sử dụng thuốc gốc Cúc tổng hợp như Sherpa 25EC, Decis 2.5EC, Cyperan 10EC,… phun ở giai đoạn lá lụa màu đỏ.
Nguyễn Thị Nguyệt – Chi cục Bảo vệ thực vật

Tư vấn kĩ thuật: 0933.067.033

 

 
 

KĨ THUẬT TRỒNG CHÔM CHÔM THÁI

KĨ THUẬT TRỒNG CHÔM CHÔM THÁI


Giống chôm chôm Thái là giống có trái lớn, trọng lượng 50-70 gram/trái, cơm dày, tróc tốt, hạt dẹt rất nhỏ, năng suất cao, chất lượng tốt, khi chín râu trái có màu xanh, vỏ có màu đỏ, xen chấm vàng rất hấp dẫn người tiêu dùng.


Hiện nay giống chôm chôm Java ít được thị trường ưa chuộng, do chất lượng và mùi vị kém. Chôm chôm nhãn chất lượng khá hơn nhưng cây cho năng suất thấp, trái nhỏ, râu trái khi chín thường héo khô, hình dạng và màu sắc quả ít hấp dẫn người tiêu dùng. Tập đoàn chôm chôm Thái nhập nội vào Việt Nam trồng tại vườn giống công ty Quốc Minh gồm nhiều giống trong đó có vài giống cho năng suất và chất lượng trái rất ngon. Giống được công ty chọn lọc và cung cấp cho thị trường hiện nay là giống có trái lớn, trọng lượng 50-70 gram/trái, cơm dày, tróc tốt, hạt dẹt rất nhỏ, năng suất cao, chất lượng tốt, khi chín râu trái có màu xanh, vỏ có màu đỏ, xen chấm vàng rất hấp dẫn người tiêu dùng. Đặc điểm của giống chôm chôm này là trái không có hiện tượng nứt khi có mưa như các dòng chôm chôm Thái hiện nay.


Kỹ thuật trồng

– Khoảng cách

Đất tốt trồng khoảng cách 10 m x 10 m, đất có độ phì thấp trồng dày hơn 8mx 8 m hay 9m x 9 m.

– Chuẩn bị hố trồng:

Hố trồng đào 50 cm x 50 cm x 50 cm, khi đào hố để riêng đất trên mặt ra một bên. Mỗi hố bón: 10-15 kg phân chuồng đã ủ hoai, 200-300 g Super Lân, trộn đều với đất mặt xung quanh, để nâng cao độ pH và phòng trừ mối, kiến nên trộn thêm với 50 g Basudin 10H và 0,5 kg vôi trộn đều với hỗn hợp đất mặt và phân lấp đầy hố.

– Trồng cây:

Dùng cuốc đào một lỗ nhỏ giữa hố trồng sâu hơn chiều cao túi đựng cây giống khoảng 2-3 cm. Sau đó, dùng tay hoặc cuốc móc một lỗ ở tâm hố, kích thước to hơn bầu cây đôi chút, sau đó dùng các loại thuốc diệt nấm như: Dithane M-45, Mancozeb hay Ridomil,… phun xịt thật kỹ vào hố trồng cây, liều lượng theo chỉ dẫn trên bao thuốc.

Để túi cây trên mặt đất, dùng dao sắc rạch một đường xung quanh túi nilon, cách đáy 2-3 cm, bóc lấy đáy túi ra. Xem xét bộ rễ, cắt bỏ tất cả các phần rễ cái, rễ con ăn ra khỏi bầu đất, sau đó mới đem cây đặt vào hố trồng.

Dùng tay lấp và ém chặc lớp đất xung quanh để cố định gốc cây con không bị gió lay, chú ý đặt cây vào hố trồng sao cho sau khi trồng cổ rể ngang với mặt đất xung quanh, không trồng âm hay lấp phần thân cây. Sau khi trồng làm bồn đường kính 1-1,2 m, để khi tưới nước không chảy ra ngoài.

Trồng xong nhất thiết phải lấy cọc cắm, buộc cành vào cọc tránh gió lay gốc. Sau đó bắt buộc phải dùng tàu dừa che năng từ hướng Đông và hướng Tây, nếu có gió mạnh thì che thêm ở hướng gió thổi đến. Nên dùng tàu dừa để việc lưu thông không khí được dễ dàng, thời gian che khoảng 60 ngày).

Trong thời gian đầu có thể trồng xen thêm các loại cây rau màu khác để tăng thu nhập, đồng thời che phủ đất, giảm cỏ dại. Tuy nhiên, cần chú ý để cây chôm chôm được thông thoáng và hấp thụ được từ 60-70% ánh sáng tự nhiên. Mùa khô có thể dùng lá chuối hay rơm tủ gốc hạn chế thoát nước và giữ ẩm cho cây nhưng không để cỏ rác, lá cây mọc nhiều xung quanh gốc, bởi vì đó là những nguồn phát sinh nấm bệnh rất dễ lây lan qua cây chôm chôm.

Chăm sóc

– Tưới nước:

Tưới nước ngay sau khi trồng, trồng vào đầu hay giữa mùa mưa sẽ đỡ công tưới nước. Nếu trồng trong mùa khô phải tưới nước thường xuyên cho chôm chôm ít nhất 1 tháng đầu. Tuy nhiên, trồng trong điều kiện ngập úng, đất đóng váng, hay tưới quá nhiều nước dễ dẫn đến thoái hóa rễ do đó chúng ta nên xem xét tưới khi nào cần thiết.

– Cắt tỉa cành:

Trong năm đầu, việc cắt tỉa cành nhằm mục đích là tạo cho cây có hình dáng khoẻ mạnh, đầy đặn, cành lá tỏa đều quanh cây. Sau khi trồng nên cắt ngọn ở độ cao 60 cm đến 70 cm. Sau khi ngọn bị cắt sẽ có những cành mọc ra từ gốc và thân cây, nên chọn để lại những cành khỏe mập mọc cách xa nhau vừa phải, khoảng từ 4-5 cành mọc đều quanh thân, cành thấp nhất phải cao hơn mặt đất ít nhất là 70 cm. Khi các cành này mọc dài ra thì cắt ngọn chỉ chừa lại chiều dài khoảng 30-40 cm tính từ chỗ chạc lên.

Việc cắt tỉa này được tiến hành đều đặn trong suốt 18 tháng đầu. Sau đó không cắt tỉa nữa mà để cây mọc tự nhiên và chỉ cắt tỉa những cành vô ích như: cành cong queo, cành mọc chồng chéo nhau, cành sâu bệnh,…

– Bón phân

Chôm chôm có nhu cầu cao đối với N và K. Khi thiếu K cây bị bệnh khô cháy đầu lá. Phân bón cho chôm chôm có thể áp dụng như sau:

Năm thứ 1:

Sau khi trồng cứ 1-1,5 tháng bón phân 1 lần, bón cho mỗi gốc 50-100 g NPK(15:15:15), xịt bổ sung phân bón lá vi lượng như: number one hay Fetrilon-combi theo liều hướng dẫn, mục đích giúp cây có đủ dưỡng chất và chất vi lượng cần thiết khi bộ dễ chưa bén đất.

Phân NPK nên pha loãng với nước dùng bình vòi sen tưới quanh gốc hay rải đều phân một vòng tròn xung quanh gốc và phủ một lớp đất mỏng lên trên. Sau mỗi lần rải hay tưới phân nên cách xa gốc thêm 5-10 cm sẽ tạo điều kiện cho rễ cây vươn xa, cây sẽ phát triển nhanh và hạn chế đổ ngã khi có gió.

Năm thứ 2:

Lượng bón cho một gốc: 100g N+50g K2O (200g urê+80g KCl). Chia làm 2 lần để bón vào đầu và cuối mùa mưa.

Năm thứ 3:

Cây bắt đầu cho quả, lượng bón cho một cây là: 1,5 phân NPK theo tỷ lệ 2:1:2. Chia ra bón 2 lần vào trước ra hoa và sau khi thu hoạch.

Năm thứ 4:

Lượng phân tăng so với năm trước 0,5-1,0 kg/cây. Giữ nguyên tỷ lệ NPK là 2:1:2. Chia thành 4 lần để bón:

+ Lần 1: sau khi thu hoạch quả tiến hành tỉa cành, bón toàn bộ lân, 1/3N và 1/3 K2O.

+ Lần 2: trước khi nở hoa: bón 1/3N.

+ Lần 3: khi quả có đường kính 1-2cm. Bón 1/3 N và 1/3 K2O.

+ Lần 4: trước khi thu hoạch 1 tháng: Bón 1/3 kali.

– Những năm sau để đảm bảo cây cho quả ổn định, lượng phân bón được tăng dần lên:2-3 kg NPK cho một cây trong 1 năm và 10-30 kg phân chuồng.

Với năng suất 7,3 tấn/ha quả, chôm chôm lấy đi từ đất : 1,5kg N, 2kg P2O5 ; 11,7kg K2O; 5,9kg Ca; 2,7kg Mg trên 1ha. Vì vậy, cần thiết bón phân hàng năm cho chôm chôm để đảm bảo giữ năng suất quả ổn định trong nhiều năm.

– Chăm sóc để cây ra hoa

Sau thu hoạch đợt trước tỉa bỏ hoàn toàn các phát hoa đã cho trái, cắt bỏ cành khô, chồi vượt, bón phân hóa học, phân hữu cơ để cây nhanh phục hồi. Khi đợt đọt thứ 2 già hoàn toàn, tiến hành xiết nước làm bông, xiết nước cho đến khi lá hơi héo, quan sát trên các mầm đỉnh co lại như đầu que diêm, bắt đầu tưới nhữ nước, lượng nước bằng 2/3 lượng nước thông thường, chờ khoảng 4-6 ngày sau để theo dõi mầm đỉnh.

Nếu mầm đỉnh xòe ra theo đường đi thẳng, cánh lá ngắn thì khi tưới sẽ ra hoa.

Nếu thấy mầm đỉnh xòe to phát triển tốt thì khi tưới sẽ ra lá non. Gặp trường hợp này ta ngưng không tưới nữa theo dõi 7-10 ngày thấy hoa lộ rõ ta tiếp tục tưới. Nếu ra lá non ta ngưng tưới, sau 10-15 ngày lá non sẽ rụng lúc này ta tưới lại cây sẽ ra hoa.

Sau khi hoa đã rõ phải tưới nước thường xuyên, liên tục và đều đặn đảm bảo cung cấp đủ nước cho cây. Có thể dùng thêm các vật liệu tủ như rơm rạ để giảm ẩm độ trên mặt bồn và tăng cường giữ ẩm cho cây.

Ngoài bón phân qua đường gốc cần phun thêm Basfoliar hoặc canxi-nitrat nhằm bổ sung đạm, canxi và một số vi lượng như Mg2+ , Zn2+ ,Bo…, phun 2-3 lần, mỗi lần cách nhau 15 ngày để chống nứt trái do thiếu Canxi và vi lượng. Chôm chôm có đặc điểm vỏ mỏng, tỷ lệ ăn được lớn do đó dễ bị nứt trái trong giai đoạn tạo cơm, vì vậy phun canxi và vi lượng là hết sức cần thiết.

Sâu bệnh hại

– Bệnh đốm mốc

Nguyên nhân do nấm Meliola commixta

Dùng các loại thuốc gốc đồng hay phun bột lưu huỳnh ở nồng độ 20g/bình 8 lít.

– Bệnh đốm bồ hóng

Bệnh gây hại chủ yếu ở mặt dưới lá. Đốm bệnh hình hơi tròn với viền không đều, kích thước 1-3 cm, đen. Bề mặt đốm bệnh hơi sần sùi do nấm bồ hóng phát triển trên đó. Có thể có nhiều đốm trên lá nhưng các đốm này thường rời nhau. Cạo lớp bồ hóng đi, bên dưới thấy mô lá bị thâm đen.

Phòng trị:

Dùng thuốc gốc đồng hay bột lưu huỳnh ở nồng độ 20g/bình 8 lít.

– Bệnh khô cháy hoa:

Nguyên nhân: do nấm Oidium sp

Bệnh gây hại chủ yếu ở mặt dưới lá. Đốm bệnh hình hơi tròn với viền không đều, kích thước 1-3 cm, đen (màu càng sậm khi đốm càng to). Bề mặt đốm bệnh hơi sần sùi do nấm bồ hóng phát triển trên đó. Có thể có nhiều đốm trên lá nhưng các đốm này thường rời nhau. Cạo lớp bồ hóng đi, bên dưới thấy mô lá bị thâm đen.

Phòng trị: Bằng các loại thuốc gốc đồng hoặc Benomyl 50WP nồng độ 10-20 g/bình 8 lít.

– Rệp sáp

Ấu trùng có cơ thể rất nhỏ khoảng 1 mm, màu hồng, có chân và có thể di chuyển. Khi trưởng thành rệp sáp không di động, bên ngoài cơ thể có lớp sáp trắng bao bọc. Rệp sáp gây hại làm trái phát triển kém, râu trái ngắn ảnh hưởng đến giá trị thương phẩm của trái. Ngoài ra, còn tiết ra chất mật đường tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển làm ảnh hưởng đến vẻ đẹp của trái.

Phòng trị: Thu hái những trái bị hại nặng đem tiêu hủy, dùng các loại thuốc để phun trừ như Supracide, Lannate, Pyrinex, Fenbis, Vidithoate…

– Bệnh phấn trắng: Oidium sp, Nguyên nhân do nấm Phyllostista hoặc Pestalotia sp.

Gây hại trên hoa, trái nơi bệnh có đốm phấn màu trắng xám, đen. Bệnh tấn công trên trái non và cả trái đã lớn bị một lớp phấn trắng bao phủ sau đó chóp gai trái bị đổi màu đen, lan dần làm cả trái bị khô đen. Trái bị bệnh kém phát triển cơm nhỏ hoặc lép.

Phòng trị: Phun thuốc sớm để bảo vệ bông và trái non bằng bột lưu huỳnh (0,2%) hoặc Kumulus, Anvil, Tilt theo nồng độ khuyến cáo.

– Sâu đục trái

Thường gây hại vào giai đoạn trái trưởng thành và chín, ấu trùng sau khi nở đục vào ăn phần thịt hoặc vỏ hạt tạo thành những đường hầm ngoằn ngoèo, đôi khi nó có thể đục cả vào hạt.

Phòng trị: Thu hoạch trái sớm khi trái vừa chín, tránh để trái chín quá lâu trên cây. Bao trái bằng bao nylong có đục lỗ. Có thể phun thuốc Decis, Cymbush, Ambush khi trái chín 15 ngày để phòng trừ hiệu quả loại sâu này.

Tư vấn kĩ thuật: 0933.067.033

CÁCH XỬ LÝ ĐỂ CHÔM CHÔM RA HOA NGHỊCH VỤ

CÁCH XỬ LÝ ĐỂ CHÔM CHÔM RA HOA NGHỊCH VỤ


Tránh nước đọng làm ngập rễ, vì rễ được hút quá nhiều nước, lúc đó cây chỉ ra đọt, không thể trổ hoa.

Nhiều năm trở lại đây, tình hình thu hoạch chôm chôm mùa thuận thường xuyên hay bị điệp khúc “được mùa, rớt giá” vì trùng dịp vào mùa với chôm chôm vùng Long Khánh (tỉnh Đồng Nai) và trái vải Bắc Giang, cho nên một số nhà vườn xã Tân Phong đã mạnh dạn chuyển đổi cách làm để tăng thu nhập kinh tế cho gia đình, đó là mô hình xử lý chôm chôm ra hoa nghịch vụ.

Hiện nay, thời tiết nắng nóng là điều kiện thuận lợi cho nhà vườn xã Tân Phong thực hiện mô hình này. Hàng năm, vào khoảng tháng 6, tháng 7 âm lịch, sau khi quan sát khắp khu vườn thấy khoảng 90% số cây đã ra đọt từ 2-3 lần, khi lá ngã sang màu lụa là bắt đầu dùng ni lon làm màng phủ. Trước khi phủ, phải vét mương vườn cho sâu hơn bình thường , để tránh nước ứ lại ngập rễ là không tốt, phải đảm bảo mương khô cách mặt liếp từ 1 – 1,2m. Sau đó, sử dụng nilon làm màng phủ xung quanh gốc (tùy theo liếp đất lớn nhỏ, lựa nilon loại có kích cỡ phù hợp), khi làm kéo nilon tạo thành hình quả núi, tức ôm theo gốc sao cho độ cao cách mặt đất khoảng 1m, còn hai bên hạ thấp để khi có mưa nước dễ chảy xuống mương. Giữa những tấm nilon liền mí, cần nối với nhau bằng cách dùng kim khâu lại không nên để hở, còn khi nối giữa hai liếp với nhau, dùng dây nilon cột chặt vào màng phủ, chia nhiều đoạn cho đều để tạo độ phẳng phiu (không bị đùn), nước mưa dễ chảy. Lưu ý, khi có mưa to, mương đầy nước, phải dùng máy bơm ra kịp thời tránh nước đọng làm ngập rễ, nếu không làm được bước này thì xem như công dã tràng… vì rễ được hút quá nhiều nước, lúc đó cây chỉ ra đọt, không thể trổ hoa.

Theo một số nhà vườn đã từng thực hiện mô hình này cho biết, từ ngày phủ nilon cho đến lúc ra hoa khoảng 50 – 60 ngày, tùy theo thời tiết. Khi thấy chôm chôm ra hoa tương đối nhiều và đạt từ 70 – 80% thì dỡ nilon (số nilon này cần xếp lại cho kỹ có thể dùng được 3 mùa). Lúc đó cho nước vào mương, tưới xung quanh gốc tạo độ ẩm khi cây đã ra hoa, vì thiếu nước sẽ làm cho hoa rụng, đậu trái ít. Từ lúc ra hoa đến đậu trái khoảng 20-25 ngày và từ khi đậu trái cho đến thu hoạch khoảng 100 ngày, vụ nghịch thường vào tháng 11,12 âm lịch tất cả có như ý muốn hay không còn tùy thuộc vào cách chăm sóc của mỗi người. Kinh nghiệm dân gian ở đây là khi bà con nuôi đọt thì sử dụng phân lân và kali, nuôi hoa sử dụng kali và đạm ,còn nuôi trái sử dụng đạm, lân, tăng kali và cho thêm phân bón lá cao cấp để tạo trái to và màu rất đẹp.

Mặc dù, mô hình xử lý chôm chôm ra hoa nghịch vụ cho sản lượng thấp, tối đa chỉ đạt được khoảng 80% so với mùa thuận, nhưng về giá cả thì cao gấp 3-4 lần. Do đó, đã có một số nhà vườn đạt hiệu quả kinh tế rất cao và cách làm này được bà con học hỏi, trao đổi lẫn nhau rộng khắp địa bàn. Chính vì thế ,năm 2009 có gần 50% diện tích chôm chôm được áp dụng theo mô hình xử lý ra hoa nghịch vụ, so với cùng kỳ tăng 30%, đây là niềm vui chung cho các nhà vườn.

Tuy nhiên, không phải nhà vườn nào thực hiện mô hình xử lý chôm chôm ra hoa nghịch vụ cũng đạt kết quả tốt, đây là nỗi lo chung của các nhà vườn, vì nó còn tùy thuộc vào thời tiết, cách theo dõi, cách chăm sóc. Bởi, trước đây nhà vườn chỉ làm theo kinh nghiệm dân gian, truyền miệng lẫn nhau, hoàn toàn không có một kiến thức nào trong sách vở. Hiện nay, nhiều nhà vườn trồng chôm chôm ở Tân Phong rất cần sự quan tâm các ngành chức năng tổ chức các cuộc hội thảo để trang bị kiến thức về cây chôm chôm, đây cũng là yếu tố giúp nhà vườn Tân Phong trên lộ trình thực hiện VietGAP và GlobalGAP hướng đi mới cho vùng đất cù lao.

Tư vấn kĩ thuật: 0933.067.033

QUY TRÌNH XỬ LÝ ĐỂ TRÁI CHÔM CHÔM CÓ CHẤT LƯỢNG CAO

QUY TRÌNH XỬ LÝ

ĐỂ TRÁI CHÔM CHÔM CÓ CHẤT LƯỢNG CAO


Chôm chôm (Nephelium lappaceum L.) là loài cây vùng nhiệt đới Đông Nam Á, thuộc họ Sapindaceae (họ bồ hòn). Tên gọi chôm chôm (hay lôm chôm) tượng hình cho trạng thái lông của quả loài cây này.

1. Giới thiệu:

Cây chôm chôm là giống cây trồng khởi nguyên ở Đông Nam Á. Ngày nay được trồng trong vùng có vĩ độ từ 15° nam tới 15° bắc gồm châu Phi, châu Đại Dương, Trung Mỹ và đặc biệt càng ngày càng gia tăng ở Úc châu và quần đảo Hawai. Cây chôm chôm thích ứng cho những vùng đất không ngập nước. Do đó, ở Việt Nam, chôm chôm được trồng chủ yếu ở các tỉnh thuộc lưu vực sông Đồng Nai và nam Trung Bộ.

2. Những đặc tính chủ yếu:

Cây chôm chôm có thể cao 8 tới 10 m, lá đơn, phiến lá hình trái xoan, đầu và đuôi lá nhọn, mọc cách, màu xanh tới xanh đậm, ngọn búp có lớp bao màu hơi đỏ. Hoa tự chùm ở đầu cành, đài từ 3 đến 5 mm, tỏa mùi thơm dịu. Trái chín 15-18 tuần sau khi kết quả. Mỗi chùm đậu quả độ trên dưới 20 trái. Mỗi năm chôm chôm có 2 mùa trái. Mỗi cây trưởng thành có thể cho thu hoạch từ 5.000 đến 6.000 trái mỗi mùa (độ 60-70 kg).
Chôm chôm là cây ra hoa nhiều, song tỉ lệ hoa thụ rất thấp, tỉ lệ quả chị từ 1 đến 3%. Sự thúi (hư) quả xảy ra nặng trong 3 tuần đầu khi thụ tinh và nhẹ hơn trước khi quả chín. Có lẽ nguyên nhân chính là thiếu dinh dưỡng (thiếu phân).
Bầu noãn của hoa chôm chôm có hai tâm bì (lá noãn), nhưng thông thường chỉ có một tâm bì phát triển thành quả (hiếm khi cả hai phát triển thành quả). Thời gian phát triển mất từ 13 tới 16 tuần lễ. Tỉ lệ phần thịt quả tăng nhanh từ tuần lễ thứ 9 cho tới tuần lễ thứ 13 và chậm hẳn từ tuần lễ thứ 13 tới tuần lễ thứ 16 (lúc thu hoạch).

3. Đặc tính sinh thái cơ bản:

Chôm chôm là loài cây có thể trồng từ xích đạo cho đến vĩ tuyến 18° nhưng thường để kinh doanh có hiệu quả thì nên trồng đến vĩ tuyến 14°, độ cao thích hợp từ 0 – 700 m, lượng mưa trung bình hàng năm từ 2000 – 5000 mm, nhiệt độ bình quân từ 22°C – 30°C, nghĩa là nên trồng ở các tỉnh miền Nam, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên.
Chôm chôm có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau như đất phù sa thoát nước tốt, đất thịt pha cát, đất đỏ bazan.
Cây chôm chôm được phân bố ở nhiều nước: Trung Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Philippinnes, Việt Nam.

4. Giá trị dinh dưỡng và ý nghĩa kinh tế:

Thành phần hóa học cây chôm chôm:

Chôm chôm là loài cây có quả hoặc để ăn tươi, hoặc đóng hộp dưới nhiều hình thức, để dự trữ hoặc xuất khẩu. Hạt chôm chôm có thành phần dầu cao nên cũng được dùng để sản xuất dầu ăn hay xà phòng. Cây và rễ chôm chôm cũng có thể dùng cho việc sản xuất dược phẩm và màu. Ở Việt Nam, người làm vườn chôm chôm có mức thu nhập tương đối cao so với các ngành Trồng Trọt khác.

Hạt chôm chôm chứa 35-40% chất dầu béo đặc, có cấu trúc của hạt ca cao, có mùi dễ chịu, gồm phần lớn là arachidin, cùng với olein và stearin. Vỏ quả chứa tanin và một saponin độc. Vỏ cây và quả xanh có chứa tanin.

5. Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh:

Ánh sáng có ảnh hưởng tới sự chuyển biến màu của vỏ quả, tức là sự chuyển biến của sắc tố anthocyanins. Quả ở ngoài sáng đỏ tươi, đẹp hơn quả trong bóng rợp.

Lượng mưa và độ ẩm rất quan trọng nhất là trong thời gian quả phát triển cần nhiều nước. Những quả nhỏ khi chín thường là kết quả của sự thiếu nước trong những tuần lễ đầu của quá trình phát triển quả. Như vậy nếu làm quả ra sớm, nghĩa là phần đầu của quá trình phát triển nằm trong mùa nắng thì vườn cần được tưới nước. Ngược lại mưa thất thường vào đầu mùa mưa làm cho quả dễ bị nứt vì lúc này ruột quả phát triển quá mạnh so với phần vỏ. Theo ghi nhận của nhiều nhà làm vườn tại Thái Lan có những năm tỉ lệ nứt quả trên giống chôm chôm nổi tiếng vỏ mỏng (rongrien) lên đến trên 50%. Mỗi quả chôm chôm có độ 400 cái râu (lông), trên mỗi râu có nhiều khẩu bào làm thoát hơi nước mạnh, vì thế hễ ẩm độ không khí thấp sẽ làm các râu queo lại, chuyển qua màu nâu đen, kém chất lượng.

6. Nhân giống:

Chôm chôm có thể nhân giống bằng hạt hoặc chiết nhánh. Hoa chôm chôm hoặc có giống đực, hoặc có 2 giống, không có khả năng tự thụ phấn để tạo quả, cần có côn trùng (ong bướm) để phân nhụy.

7. Cách trồng:

Khoảng cách trồng là 10 m x 10 m hoặc 12 x 12 m.

Chuẩn bị hố trồng:

Hố trồng có kích cỡ vuông 80 cm xx 80 cm, sâu 75 cm. Khi đào hố nên để riêng đất trên mặt (lớp đất phía trên đến 30 cm) ra một bên và đất ở lớp phía dưới ra một bên.

Lượng phân cho mỗi hố: 10 kg phân hữu cơ hợc phân chuồng hoai, 0,2 – 0,3 kg Super lân trộn đều với đất mặt lấp đầy hố. nếu không đủ đất thì lấy thêm đất mặt ở xung quanh và rải thuốc chống mối.

Sau đó tưới đẫm nước (hoặc có ít nhất 2 đến 3 cơn mưa) cho hỗn hợp dất + Phân phân hủy nhanh.

Ở những nơi thoát nước tốt như đất đỏ bazan, đất thịt pha cát chỉ cần lấp đầy hố để sau khi tưới nước đất lún xuống mặt hố sẽ hơi thấp hơn mặt đất bình thường khoảng 10 – 15cm. Đối với vùng đất thoát nước kém thì phải lấp đất cao hơn mặt hố từ 10-15 cm, sau khi tưới nước, đất lún xuống bằng mặt đất tự nhiên là vừa.

Hố trồng phải chuẩn bị xong trước khi trồng từ 10 đến 15 ngày.

Riêng đối với đất phù sa đồng bằng sông Cửu Long tuỳ theo độ cao của thủy cấp mà đắp ụ hoặc lên liếp tối thiểu cao hơn mặt nước từ 80 – 100 cm và hố trồng căn cứ vào mặt liếp mà vận dụng.

8. Chăm sóc:

Hai biện pháp quan trọng là bón phân và tưới nước:

– Bón phân: cần bón đầy đủ và cân đối, lượng phân và tỉ lệ các loại phân thay đổi theo tính chất của đất, độ lớn của cây và sản lượng cây. Khảo cứu của các tác giả Thái Lan cho biết trong thời kỳ cây tăng trưởng (kiến thiết cơ bản) cần bón N-P-K theo công thức 16-16-16. Trong thời kỳ thu hoạch theo tỉ lệ N-P-K là 12-12-17 và trong khi nuôi quả là 13-13-21. Cần bón từ 2 đến 3 lần mỗi năm, lượng phân tăng mỗi năm 0,5 kg. So với cách bón phân tại nước ta thì bà con ta chú trọng nhiều vào phân đạm hơn các loại phân khác.

Sự tưới nước thất thường sẽ dẫn đến các hiện tượng sau:

+ Quả không đồng đều, lúc thiếu nước quả nhỏ hơn bình thường.
+ Quả có thể bị nứt, nhất là giai đoạn đầu của quá trình phát triển quả đã phát triển xong phần vỏ ở thời kỳ thiếu nước tiếp theo là giai đoạn phát triển ruột quả ở thời kỳ thiếu nước khiến phàn ruột phình ra, vỏ bị tức nên nứt toạc ra, hiện tượng này cũng gặp nhiều loại trái như chuối, cam, mít….. Hiện nay ở một số nước, biện pháp tưới nước nhỏ giọt được coi là lý tưởng vì giữ độ ẩm điều hoà hơn, đỡ tốn nước (trường hợp Long Khánh), kiểm soát phân tốt hơn ….

Xử lý ra hoa: Chôm chôm cũng phải tỉa cành như nhãn: sau mỗi mùa thu hoạch tỉa bỏ các cành đã mang trái bằng cách bấm sâu vào các cành này vì chúng đã kiệt nhựa để cành mới sinh ra. Tất cả các cành bệnh, cành vượt, cành khuất trong tán nên tỉa bỏ. Sau đó bón phân căn bản để cây mau tích lũy lại các chất dự trữ trong thân càng sớm, như vậy khi xử lý ra hoa mới có hiệu quả. Một số biện pháp xử lý ra hoa thông thường đã được một số nơi áp dụng như sau: xiết nước vào đầu mùa khô từ 3-6 tuần tùy độ lớn, sức sinh trưởng của cây và đặc điểm của đất, sau đó bón phân nhử (bón ít) và tưới nhử (tưới ít) vài ngày trước khi bón đậm, tưới đậm và đều trở lại, cây sẽ ra hoa sớm hơn bình thường. Một số nhà vườn còn làm thêm việc khoanh vỏ. Sự khoanh vỏ nên làm thận trọng vì khi mạch bị chận lại, hệ thống rễ sẽ thiếu dinh dưỡng, nếu lạm dụng thái quá cây có thể chết.

9. Phòng trừ sâu bệnh:

Phun hóa chất:

– Thuốc trừ sâu bệnh: quả chôm chôm hay bị sâu đục quả, ruồi đục quả, và giống như nhiều vùng trồng chôm chôm khác trên thế giới là bị bệnh phấn trắng nghiêm trọng, tại Long Khánh bà con gọi là bệnh “râu kẽm”. Chùm quả bị nhiễm bệnh sẽ bị rụng hoặc còi cọc như vậy cần sử dụng thuốc trừ nấm để phun lên quả ngay ở giai đoạn còn non.

– Chống hiện tượng quả bi: Các chất điều hòa tăng trưởng được dùng khá phổ biến ở Thái Lan trên cây chôm chôm (ở nước ta vùng trồng sơ ri ở Gò Công Đông đã dùng nhiều). Có hai loại bông được sinh ra trên các cây khác nhau: Bông đực và bông lưỡng tính.Vì bông đực không thể cho quả nên các người trồng tỉa có khuynh hướng loại bỏ cây đực qua công việc chọn giống, ghép cây… Điều này dẫn đến không đủ nguồn hạt phấn để thụ cho các hoa lưỡng tính. Trong một số trường hợp hiện tượng quả điếc, hay còn gọi là “quả bi” xuất hiện những quả này có rất ít thịt. Để khắc phục hiện tượng này tại một số vùng trồng tại Thái Lan người ta phun chất NAA (naphthalene acetic acid). Nồng độ biến động từ 40-160 mg/lít (40-160 ppm) phun ở giai đoạn nụ trước khi bông nở. Khi quả đã thụ rồi để tăng kích thước quả cho chôm chôm rongrien, người ta lại phun NAA ở nồng độ 125 ppm (125 mg/l), nếu dùng đặc hơn quả sẽ bị nhỏ lại.

10. Thu họach và bảo quản:

* Thu hoạch:

– Thu hoạch lúa 90% trái trên cây đã chuyển sang màu vàng, vàng đỏ hoặc màu đỏ tùy theo giống chôm chôm.
– Tùy theo thời giá có thể thu hoạch sớm hoặc trễ hơn 10 ngày.
– Thu hoạch lúc trời mát.
– Dùng kéo cắt từng chùm. Các chùm trên cao có thể dùng thang hoặc dùng móc kéo. Thu hoạch lúc trời mát.
– Không để quả dính đất, dính bụi.
– Không để ánh nắng chiếu vào quả.
– Chọn nơi thoáng mát, trải đệm cói hoặc lá chuối khô, chất một lớp mỏng chôm chôm lên phía trên.

* Cắt tỉa:

– Dùng kéo mũi nhọn tỉa bỏ những trái sâu, trái teo, thối, khô trên chùm chôm chôm.
– Dùng kéo sắc cắt bỏ các lá chôm chôm tránh làm mát nước
– Cắt bỏ phần cuống quá dài. Cuống chỉ chừa 20 – 30 cm.

* Làm sạch:

– Hạn chế tối đa việc cọ rửa vì có thể làm dập chôm chôm
– Chỉ rửa những trái bị kiến, rệp, dính đất. Dùng vòi nước có áp lực mạnh xịt vào trái. Sau đó rửa lại bằng nước mưa.

* Đóng gói:

– Xếp trái vào cần xé hoặc rổ nhựa được lót lá chuối tươi hoặc lá sen tươi để giữ ẩm và tránh làm dập chôm chôm. (20 kg/cần xé hoặc 10 kg/rổ nhựa).
– Phủ kín cần xé bằng lá chuối tươi hay bao ẩm.
– Đặt chôm chôm nhẹ nhàng vào cần xé hoặc rổ nhựa. Một lớp cuống trái quay vào giữa, lớp sau cuống trái quay ra ngoài.

* Vận chuyển:

– Tránh lắc xốc khi vận chuyển
– Bảo đảm chôm chôm được thông thoáng khi vận chuyển
– Phun nước thường xuyên khi chôm chôm bị khô

* Bảo quản:

Chôm chôm được bảo quản tốt nhất trong các chum, vại bằng sành. Chum có thể giữ ẩm và mát khi ta đặt chúng vào trong chậu có đựng ít nước. Nước sẽ thấm qua thành chum và bay hơi làm mát trong chum. Do đáy chum bị ướt nên cần lót một lớp bẹ chuối hoặc vỉ tre hoặc các vật liệu khác để trái không bị ướt.

CÁC BIỆN PHÁP KÍCH THÍCH RA HOA

Xông khói

Xông khói để kích thích xoài ra hoa là một kỹ thuật được Gonzales thực hiện từ năm 1923 ở Philippines, mặc dù có ghi nhận là Galang đã thực hiện sớm hơn. Dutcher (1972) cho rằng việc xông khói thật sự kích thích xoài ra hoa hơn là đơn giản chỉ gây ra sự phát triển của mầm hoa đã hình thành trước đó. Tác động của biện pháp xông khói lên sự ra hoa xoài được giải thích do tác động của nhiệt gây ra bởi việc hun khói (Gonzalez, 1923), do tác động của khí CO và CO2 cùng với nhiệt (Galang và Agati, 1936). Việc áp dụng thành công biện pháp xông khói để kích thích ra hoa xoài ở Philippines cũng được thực hiện bởi Alcata và San Pedro (1935, trích dẫn bởi Shu và Sheen, 1987). Việc xông khói được tiến hành hàng ngày liên tục trong hai tuần. Mầm hoa bắt đầu phân hoá sau 5-15 ngày sau khi xông khói liên tục (Dutcher, 1972). Cây không có khả năng ra hoa nếu không xuất hiện mầm hoa sau thời gian kích thích nầy (Gonzalez, 1923). Biện pháp xông khói thường được thực hiện trong tháng 11 hoặc đầu tháng 12 nhưng hiệu quả nhất là trong tháng Giêng (Borja và Bautista, 1932, trích dẫn bởi Bondad, 1989). Tuy nhiên, biện pháp nầy không được áp dụng phổ biến vì tốn nhiều công lao động, phụ thuộc vào yếu tố thời tiết nhưng kết quả không đáng tin cậy.

Cắt rễ

Tổng quan về tình hình áp dụng biện pháp cắt rễ trên ngành trồng cây ăn trái ở một số nơi trên thế giới, Khan và ctv. (1998) cho biết cắt rễ là một kỹ thuật có thể làm giảm sự sinh trưởng trên cây táo (Maggs, 1964, 1965; Geisler và Ferree, 1984; Schupp và Ferree, 1990). Biện pháp cắt rễ còn được áp dụng rộng rãi trong nghề làm vườn ở Châu Âu nhằm làm giảm kích thước tán cây và kích thích sự tượng mầm hoa và đậu trái (River, 1866). Phương pháp nầy cũng được sử dụng có hiệu quả trong sản xuất táo ở miền đông nước Mỹ trong những năm đầu thập niên 1990 (Schupp, 1992).

Nhằm làm giảm sự sinh trưởng của cây táo trồng ở mật độ 20.000 cây/ha (khoảng cách 1,0 m x 0,5 m), Khan và ctv. (1998) đã khảo sát biện pháp cắt rễ ở hai bên hàng, cách gốc cây từ 20-30 cm, sâu 30 cm. Kết quả cho thấy các đặc tính sinh trưởng như chiều cao cây, đường kính tán, chiều dài và đường kính cành đều giảm từ 11-16% ở năm thứ hai, số hoa/mầm, số mầm hoa/thân và tỉ lệ đậu trái tăng so với đối chứng, năng suất của nghiệm thức cắt rễ ở khoảng cách 30 cm giảm không khác biệt so với đối chứng trong năm thứ hai. Tuy nhiên, tác giả cho rằng do sự giảm kích thước tán có thể làm giảm nguồn cung cấp các chất carbohydrate nên làm kích thước trái của biện pháp cắt rễ giảm 15,6% trong năm thứ hai. Đối với giống xoài có đặc tính sinh trưởng mạnh như xoài Kensington Pride, sự sinh trưởng quá mạnh của cây xoài trong mùa mưa sẽ làm tăng kích thước tán cây và sẽ làm giảm hiệu quả cho năng suất của cây. Do đó, kỹ thuật cắt rễ nhằm làm giảm sự phát triển của tán cây, thúc đẩy sự ra hoa và đậu trái. Nhằm cải thiện năng suất của giống xoài nầy, Kulkarni và Hamilton (2001) đã nghiên cứu biện pháp cắt rễ nhằm tăng năng suất cho giống xoài nầy. Rễ cây xoài được cắt xung quanh tán cây, cách gốc 60 cm và sâu 60 cm. Thí nghiệm được thực hiện trên cây xoài 5 năm tuổi gồm có 4 nghiệm thức gồm đối chứng không cắt rễ, cắt rễ hai lần và bốn lần vào tháng 12 (đầu mùa mưa) và tháng Tư (cuối mùa mưa). Kết quả cho thấy rằng việc cắt rễ càng nhiều lần sẽ làm giảm sự sinh trưởng càng nhiều. Số đợt sinh trưởng của nghiệm thức đối chứng nhiều gấp bốn lần so với nghiệm thức cắt rễ bốn lần trong tháng 12. Tỉ lệ quang hợp của nghiệm thức cắt rễ bốn lần trong tháng 12 và tháng 4 đều giảm gần 50% so với đối chứng, trong khi nghiệm thức cắt rễ hai lần tỉ lệ quang hợp giảm từ 15% (tháng 12) đến 23% (tháng 4). Tuy nhiên, năng suất của nghiệm thức cắt rễ hai lần cao gấp 3,5 lần và cắt rễ bốn lần cao gấp 1,4 lần so với đối chứng. Nghiệm thức cắt rễ hai lần cho năng suất cao hơn nghiệm thức cắt rễ bốn lần nhưng không có sự khác biệt ở thời điểm cắt vào tháng 12 hay tháng 4. Như vậy, việc cắt rễ đã có hiệu quả ngăn cản sự tích luỹ ở mức độ cao các chất carbohydrate, làm giảm sự sinh trưởng của cây xoài và làm cho cây đạt năng suất cao hơn so với đối chứng. Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong lá cũng được ghi nhận. Chất đạm trong trong lá tương tự nhau ở tất cả các nghiệm thức và cao hơn mức độ tiêu chuẩn, chất kali, magnesium và Bore nằm trong mức độ tiêu chuẩn nhưng lân và canxi thì thấp hơn mức độ tiêu chuẩn. Kulkarni (2002) cho rằng việc cắt rễ góp phần làm giảm sự trao đổi chất ức chế sự ra hoa mà chủ yếu là Gibberellin và gián tiếp làm giảm nguồn cung cấp Cytokinin.

Xới gốc bón phân cho cây bưởi trước khi xiết nước và phun Paclobutrazol kích thích bưởi ra hoa
Xới gốc bón phân cho cây bưởi trước khi xiết nước và phun Paclobutrazol kích thích bưởi ra hoa

Khấc thân hay khoanh cành

Việc khoanh hay khấc thân (cành) gây ra sự tích luỹ những sản phẩm trao đổi chất được tạo ra trên chồi (carbohydrate, ABA và auxin) ở phần trên vết khoanh nhưng đồng thời những chất dinh dưỡng hoặc những chất đồng hoá (Cytokinin, Gibberellin và đạm) được cung cấp bởi rễ cũng được tích luỹ ở phần dưới vết khoanh (Meilan, 1997) và những sản phẩm nầy có thể ảnh hưởng đến sự ra hoa (Zimmerman và ctv., 1985; Hackett, 1985). Việc khoanh thân đã làm phá vỡ tế bào mô libe nên trực tiếp ảnh hưởng đến sự vận chuyển các sản phẩm đồng hoá (Noel, 1970; Goldschmidt và ctv., 1985; Menzel và ctv., 1995). Khi tổng hợp các nghiên cứu về biện pháp khấc thân, Davenport và Núnẽz-Elisea (1997) đã làm sáng tỏ sự đáp ứng của biện pháp khấc thân bao gồm việc làm giảm sự cung cấp các sản phẩm đồng hoá và Auxin tới rễ và tác động nầy đã làm giảm hoạt động của rễ, một sự giảm nguồn cung cấp Cytokinin cho chồi. Khấc thân làm giảm sự sinh trưởng dinh dưỡng và kích thích sự ra hoa trên cây vải ở Florida và Hawaii mặc dù kết quả không ổn định (Menzel, 1983). Khi nghiên cứu tác động của biện pháp khấc cành lên sự biến đổi các chất carbohydrate trên cây quýt Ponkan ở những thời điểm khác nhau trong năm, Mataa và ctv. (1998) nhận thấy rằng hàm lượng đường sucrose và đường khử (Glucose và fructose) trong lá không bị ảnh hưởng bởi việc khấc cành nhưng biện pháp khấc cành trong tháng 9 thì có hàm lượng tinh bột cao nhất vào tháng 2, khác biệt có ý nghĩa so với biện pháp khấc từ tháng 5-7. Sự giảm trong khả năng trao đổi khí trên lá và sự sinh trưởng do tác động bởi biện pháp khấc cành cũng được ghi nhận trên nhiều loại cây trồng (Schaper và Chacko, 1993; Simmons và ctv. 1998; Myers và ctv. 1999).

Sự khoanh cành trên cây quýt Satsuma (C. Unshiu Mars.) làm tăng tỉ lệ số hoa không lá (88,6% so với 46%) và số hoa/lóng (2,4 so với 1,2) (Koshita và ctv. 1999). Ở Ấn Độ, Rameshwar (1988) kích thích ra hoa trên hai giống xoài Banganapally và Romani bằng cách khoanh cành rộng 2 cm vào cuối tháng 10 kết quả cho thấy tỉ lệ số chồi ra hoa lần lượt là 52% và 46% so với đối chứng không xử lý là 30% và 15%. Ở Úc, khấc thân cây xoài là một kỹ thuật đã có từ lâu nhằm kiểm soát sự sinh trưởng, sự ra hoa và phát triển trái xoài trong suốt mùa mùa xoài (Noel, 1970), và cũng nhằm làm tăng sự ra hoa (Malik, 1951; Rath và Das, 1979). Tuy nhiên, hiệu quả của biện pháp khoanh cành thường không đoán trước và làm giảm sự sinh trưởng nếu lập lại nhiều lần ở những năm tiếp theo (Winston và Wright, 1986). Nhằm khắc phục tình trạng cho trái không ổn định trên cây xoài Kensington Pride ở vùng Darwin, thuộc miền Bắc nước Úc (khí hậu nhiệt đới), Leonardi và ctv. (1999) áp dụng biện pháp khấc thân kết hợp với tẩm Morphactin vào vết khấc.

Nhằm xác định hiệu quả của biện pháp khấc thân cây (girdling) lên sự ra hoa và sự sản xuất của giống xoài Tommy Atkins ở Brazil, José (1997) đã tiến hành khấc thân cây xoài ở giai đoạn từ 30-90 ngày trước khi phun Nitrate kali, kết quả cho thấy khấc thân 60-75 ngày trước khi phun Nitrat kali sẽ làm tăng tỉ lệ ra hoa và thu hoạch sớm hơn cây đối chứng 23 ngày nhưng sự sinh trưởng dinh dưỡng của cây bị khấc kém hơn so với đối chứng. Rath và Das (1979) cho biết trên giống xoài Langra ở Ấn Độ, khấc cành trong năm nghịch (off-year) cây xoài ra hoa sau 122 ngày với tỉ lệ 42%, cao hơn so với đối chứng (8%) nhưng thấp hơn khi khấc cành có kết hợp với phun chất ức chế tăng trưởng Cycocel ở nồng độ 3.000 mg/L (62,3%).

Biện pháp khấc thân hay khoanh cành còn có tác dụng làm tăng sự đậu trái trên cây có múi do đặc tính tự bất dung hợp (self-incompatibility) hoặc thiếu hạt phấn có sức sống. Việc khấc thân hay khoanh cành chỉ là vết cắt của dao hay sứa chứ không lột cả lớp da như biện pháp “khứa cổ, lột da” để kích thích ra hoa trên cây nhãn tiêu da Bò. Furr và ctv. (1945) cho biết rằng cây hấp thu các chất dinh dưỡng bình thường trở lại sau khi khấc 2 tuần. Ở Tây Ban Nha, Gonzales-Sicilia (1963) cho biết biện pháp khấc trên cành chính cũng được áp dụng thành công để làm tăng sự đậu trái trên cây quýt Clementine. Việc khấc cành nhằm làm tăng sự đậu trái được thực hiện ngay sau khi hoa nở rộ. Krezdorn (1961) khi nghiên cứu thời điểm khấc cành ảnh hưởng lên sự đậu trái để nhận thấy khấc cành khi hoa nở rộ, rụng cánh 2/3, rụng cánh hoàn toàn, sau 2 hay 3 tuần đều có sự đáp ứng tương tự, tuy nhiên thời điểm hoa rụng cánh hoàn toàn là thời điểm thích hợp nhất. Shamel (1932) đạt được kết quả tốt nhất khi khấc ở cuối thời kỳ nở hoa. Hiệu quả làm tăng đậu trái của biện pháp khấc cành ở năm thứ nhất hầu như rất rõ ràng nhưng ảnh hưởng của biện pháp nầy lên năng suất của những năm tiếp theo cũng là điều đáng quan tâm. Allwright (1936) cho biết trên cây cam Washington navel 14 năm tuổi khi khấc cành thì năng suất tăng 14% trong năm đầu tiên, năm tiếp theo tăng 4%, năm thứ ba tăng 2,5% và năm thứ tư giảm 5% năng suất. Ngoài ra, việc khấc thân ở gần mặt mặt đất cũng có thể tạo điều kiện cho nấm gây bệnh thối gốc (xì mủ) tấn công. Giải thích về các kết quả nầy, nhiều tác giả cho rằng mạch libe không liền hoàn toàn sau khi khấc đã làm giảm từ từ khả năng vận chuyển các chất đồng hoá của cây.

Khấc thân kích thích xoài ra hoa
Khấc thân kích thích xoài ra hoa

 Xử lý ra hoa bằng biện pháp khấc thân trên cây xoài

Xử lý ra hoa bằng biện pháp khấc thân trên cây nhãn tiêu da Bò
Xử lý ra hoa bằng biện pháp khấc thân trên cây nhãn tiêu da Bò

Khấc thân trên cây nho sau khi đậu trái giúp cho trái phát triển tốt hơn
Khấc thân trên cây nho sau khi đậu trái giúp cho trái phát triển tốt hơn

Điều khiển sự ra bằng hóa chất, Sự lưu ý chung:

Có một số nhà sinh lý học thực vật đánh giá quá cao vai trò của các hợp chất ngoại sinh bởi vì cho tới thời điểm nầy chưa có hợp chất riêng lẻ nào tìm thấy thúc đẩy sự ra hoa trên các cây.
Trái lại, một số nhà nghiên cứu thì đánh giá hiệu quả thúc đẩy hoặc ngăn cản sự ra hoa của các chất ngoại sinh. Ngay cả khi những hiệu quả rõ ràng riêng lẻ cũng không đủ để kết luận rằng sự đáp ứng tương tự có thể được kiểm soát bởi mức các chất nội sinh trong những cây bình thường.
Jacols () đã đặt ra nguyên tắc PESIGS để trả lời câu hỏi “chất nào kiểm soát một quá trình sinh học được cho một cách bình thường”.

(Parallel-P) Sự thay đổi tương tự giữa một chất xuất hiện trong tự nhiên và quá trình được cho.
(Excision-E) Sự cắt bởi nguồn tự nhiên của hóa chất với sự vắng mặt của chất nầy ở giai đoạn tiếp theo hoặc dùng sự đột biến hóa sinh hoặc những chất để khóa lại như là sự tương đương của sự cắt bớt.
(Substitution-S) Sự thay thế của một hóa chất cho một cơ quan hoặc tế bào được chỉ ra trong tự nhiên, với sự phục hồi theo sau của quá trình.
(Isolation- I) phân lập những chất nầy và chỉ ra hiệu quả của nó như trên cơ quan không bị biến đổi.
(Generalization-G) Khái quát hóa kết quả bằng việc chỉ ra rằng 5 điểm khác nhau được giữ cho những loài khác.
(Specificity-S): tính chất đặc trưng của hóa chất bằng việc kiểm định những trường hợp không hiệu quả của hóa chất.

Điều quan trọng đáng chú ý là trường hợp sự thúc đẩy quá trình ra hoa gồm nhiều thành phần mà mỗi thành phần chỉ đáp ứng cho một phần của sự thay đổi, mà không chuyển hoàn toàn dẫn đến không hình thành hoa. Mặt khác, nếu không có sự đáp ứng với hóa chất thì cũng không có thể kết luận rằng đây là những bằng chứng để kết luận hóa chất nầy không có hiều quả.
Liều lượng áp dụng các chất ngoại sinh

Trong một số trường hợp cho thấy, nồng độ thấp hơn hoặc cao hơn một giá trị đặc biệt nào đó thì sẽ có tác dụng kích thích hoặc ngăn cản sự ra hoa. Nồng độ các chất ngoại sinh thúc đẩy hay ngăn cản sự ra hoa khác nhau tùy theo loài và những điều kiện khác nhau. Ngay cả có sự mâu chuẩn giữa các nhà nghiên cứu về nồng độ một chất ngoại sinh.

Ngoài ra, có sự tương tác giữa các thành phần, đặc biệt là trong môi trường nuôi cấy (như chelate). Do đó, phải lưu ý khi sử dụng những dung dịch hòa tan mà có sự khác nhau giữa thực tế và lý thuyết.

Sự tương tác bên trong cây cũng là một điều lý thú cho các nhà sinh học.

Thí dụ: Thúc đẩy sự ra hoa của cây ngày ngắn Lumma paucicostata (6744), trong diều kiện không cảm ứng bao gồm đồng, hoặc một loại acid amin nào đó. Hợp chất nầy có thể đạt hiệu quả, nhưng có sự tương tác lẫn nhau giữa các chất nầy rất phức tạp, nên rất khó giải thích được những nghiên cứu không giúp cho sự hiểu biết về quá trình hình thành của sự ra hoa. Một khó khăn khác là dạng hóa chất không tinh khiết dẫn đến không xác định được tác động chính của hỗn hợp.

Cách và vị trí áp dụng:

Phun lên lá là cách phổ biến nhất cho việc áp dụng các chất ngoại sinh. Mặc dù cách nầy có điểm thuận lợi là tiện lợi, dễ áp dụng, nhanh cho cây trồng. Tuy nhiên, phương pháp nầy không tốt cho nghiên cứu cơ bản về sự tượng hoa. Bởi vì một mức độ tới hạn của hóa chất có thể được đòi hỏi ở chổ nầy nhưng không cần thiết ở chổ khác. Trong nhiều trường hợp sự gợi có thể tùy thuộc vào mức độ thành lập của hóa chất ở những phần khác nhau của cây.

Nói chung, hiệu qủa của hóa chất tùy thuộc vào vị trí áp dụng. Có thể đạt được hiệu quả nhưng cũng có thể ngăn cản sự ra hoa. Do đó, để tránh được sự phức tạp nầy có thể giới hạn vị trí áp dụng ở một vùng nào đó như ở tỉnh, ở một địa phương nào đó. Hệ thống rễ và cách áp dụng có thể sửa đổi sau đó.
Thời gian áp dụng

Hiệu quả của một hợp chất ngoại sinh tùy thuộc lớn vào thời gian áp dụng. Sự thúc đẩy hay ức chế của một hợp chất thường được quan sát chỉ khi việc xử lý được thực hiện ở một giai đoạn đặc biệt trong quá trình phát triển của cây như kích thích ra lá, sự gợi ở đỉnh, sự phát triển hoa..một hợp chất có thể có tác dụng ức chế hoặc thúc đẩy tùy thời gian áp dụng.

Các chất kích thích ra hoa:

Trong việc điều khiển sự ra hoa trên cây xoài, có nhiều hoá chất được sử dụng mà dựa vào sự tác dụng của nó ta có thể chia làm thành hai nhóm chính: các chất có tác dụng phá miên trạng mầm hoa (bud break) và chất ức chế sự sinh trưởng (growth retardant). Các chất phá miên trạng thường thúc đẩy sự phân hoá mầm đang trong thời kỳ miên trạng. Ứng dụng rộng rãi và tiêu biểu nhất của nhóm chất nầy là Nitrate kali và Thiourea. Các chất ức chế quá trình sinh tổng hợp GA, làm giảm sự sinh trưởng của cây, qua đó thúc đẩy sự khởi phát hoa. Tiêu biểu của nhóm nầy là chlormequat chloride và Paclobutrazol.

Hóa chất có tác dụng phá miên trạng mầm hoa
* Nitrate kali

Nitrate kali được phát hiện ứng dụng để kích thích ra hoa trên cây xoài đầu tiên ở Philippines vào thập niên 1970 (Bondad, 1989). Mặc dù KNO3 có hiệu quả trong việc kích thích ra hoa xoài “Carabao” nhưng cơ chế của nó chưa được giải thích rõ (Valmayor, 1987). Nitrate kali không phải là một kích thích tố hoặc thúc đẩy ra hoa mà nó gây ra một sự chuyển đổi từ tình trạng sinh trưởng dinh dưỡng sang sinh sản nhưng chỉ như là một sự chuyển đổi đột ngột một chương trình ra hoa đã có sẵn từ trước (Protacio, 2000). Sự phun Nitrate kali là một tác nhân mà nó khởi phát hoa từ những mô đã đủ khả năng ra hoa nhưng chưa xác định để ra hoa. Sự chuyển đổi từ tình trạng dinh dưỡng sang sinh sản nhưng không phải là sự chuyển đổi từ thời kỳ tơ sang thời kỳ trưởng thành mà thực chất là một tác nhân kích thích cho sự khởi phát hoa. Samala (1979) cho rằng KNO3 tác động như là một tác nhân kích thích. Sự hiện diện của những mầm hoa miên trạng được hình thành trước cho thấy rằng KNO3 đơn giản chỉ phá vỡ sự ngủ nghỉ của mầm hoa và gây ra sự phân hoá mầm hoa thành hoa. Winston and Wright (1984) khẳng định rằng KNO3 không thúc đẩy mầm ngủ xuất hiện sớm hơn mà thực ra nó chỉ kích thích mầm hoa đã hình thành trước phân hoá thành phát hoa.

Khảo sát vai trò của từng ion trong hợp chất KNO3 gây ra hiệu quả kích thích ra hoa trên cây xoài, Manuel (1976) kết luận ion NO3−NO3− size 12{ ital “NO” rSub { size 8{3} } rSup { size 8{-{}} } } {} chính là yếu tố quyết định, có tác dụng phá vỡ sự miên trạng của mầm ngủ và kích thích sự ra hoa. Tuy nhiên, trong số các cation K+, Na+, NH4+ và Ca++ kết hợp với ion Nitrate để tạo thành muối nitrate thì chỉ có cation K+ là có hiệu quả kích thích ra hoa cao hơn cả. Lyannaz (1994) cũng khẳng định rằng ion Nitrate có vai trò quan trọng nhất trong quá trình kích thích ra hoa xoài.

– Cơ chế tác động của Nitrate kali lên sự ra hoa xoài

Sự khử ion nitrate thành ammonia được xem là bước đầu tiên trong cơ chế tác động của KNO3 (Bondad, 1989). Methionine, là một tiền chất trực tiếp trong quá trình tổng hợp ethylene được hình thành từ ammonia (Maity và ctv., 1972). Valmayor (1987) ghi nhận rằng sự gia tăng nồng độ ethylene nội sinh trong chồi và sự hình thành các hoạt động của enzyme trong lá xoài xuất hiện 2 giờ sau khi phun Nitrate kali, điều nầy cho thấy rằng hiệu quả của Nitrate kali lên quá trình sinh tổng hợp ethylene là rất nhanh và là một quá trình trung gian. Do đó, tác giả kết luận rằng hiệu quả kích thích ra hoa của Nitrate kali thuộc cơ chế ethylene trung gian. Trái lại, Davenport và Núnẽz-Elisea (1991) cho rằng rằng hiệu quả của Nitrate kali lên sự ra hoa có thể không phải là quá trình trung gian bởi sự gia tăng sự tổng hợp ethylene trong lá và chồi vì khi xử lý những cành nằm ngang không có ảnh hưởng lên sự sản xuất ethylene trong hoặc sau khi kích thích. Theo dõi sự khử nitrate, carbohydrate và mức độ đạm trong lá của xoài ‘Carabao’, Quirol (1987) kết luận rằng Nitrate kali không ảnh hưởng lên khía cạnh khác của sự trao đổi chất của chất đạm và carbohydrate. Do đó, Lye (1978) cho rằng hiệu quả ra hoa của KNO3 là một quá trình kích thích, nó chuyển chồi từ thời kỳ sinh trưởng sang sinh sản.

Việc xử lý Nitrate kali không có ảnh hưởng lên số trái, trọng lượng trái và tổng số chất rắn hoà tan trong trái (Mosqueda và ctv., 1982). Sergent and Leal (1989) cũng tìm thấy rằng phun KNO3 ở liều lượng 10 g/L có hiệu quả ra hoa sau 7 ngày trên chồi 10 tháng tuổi nhưng không có hiệu quả trên sự đậu trái hoặc năng suất. Tuy nhiên, biện pháp xử lý ra hoa xoài bằng Nitrate kali được Hội Đồng Nghiên Cứu Nông Nghiệp Philippines (1978) xác nhận là biện pháp đáng tin cậy. Ngoài ra, Nitrate kali còn thúc đẩy cho xoài ra hoa đồng loạt, giúp kéo dài mùa thu hoạch xoài, cung cấp xoài trong mùa nghịch và đây là biện pháp rẻ tiền dễ áp dụng.

– Đáp ứng của giống xoài lên sự xử lý ra hoa bằng Nitrate kali

Tìm hiểu sự đáp ứng của các giống xoài trong nước (Philippimes) và các giống nhập nội từ Thái Lan, Việt Nam và Ấn Độ, Bondad và ctv. (1977) tìm thấy rằng xử lý Nitrate kali ở nồng độ 1-2% trong thời gian từ tháng 10-12 chỉ có hiệu quả kích thích ra hoa trên xoài M. indica, đặc biệt là hai giống xoài Pico và Carabao, trong đó giống xoài từ Việt Nam được xác nhận là xoài cát thuộc M. indica nhưng cũng không đáp ứng với việc xử lý ra hoa bằng Nitrate kali.

Rojas và Leal (1995) cho biết xử lý Nitrate kali ở nồng độ 6%, ông đã kích thích ra hoa sớm (tháng 9-10) và làm tăng tỉ lệ số chồi ra hoa trên cây xoài Haden 2 năm tuổi. Sergent và ctv. (1997) tìm thấy Nitrate kali ở liều lượng 36g/L có hiệu quả duy trì năng suất cao liên tục trong hai năm trên cây xoài Haden 5 năm tuổi, trong khi cây đối chứng cho năng suất thấp và bị hiện tượng cho trái cách năm rất nặng.

Hiệu quả của Nitrate kali tuỳ thuộc vào từng giống xoài. Hầu hết các nhà nghiên cứu cũng như Bondad (1989) đều khẳng định rằng các giống xoài của Philippines như “Carabao”, “Pahutan”, và “Pico” đáp ứng rất tốt với Nitrate kali dưới những điều kiện sinh lý được xác định cũng như không xác định. Calvo (1983) báo cáo rằng ở liều lượng 15 g/L cho kết quả tốt trên giống xoài “Pico”, tỉ lệ ra hoa đạt 100% và mầm hoa xuất hiện trong 6 ngày. Trong lúc đó, liều lượng 10 g/L là tốt nhất cho xoài “Carabao”, đạt tỉ lệ ra hoa 80% sau 7 ngày, xoài “Senorita” ra hoa 100% sau 9 ngày ở liều lượng từ 16-20 g/L. Trên giống xoài “Dudul”, Oyao and Calvo (1994) cho biết liều lượng 6 g/L dường như tốt nhất cho giống xoài nầy. Tuy nhiên, ở vùng Colima của Mexico, được khuyến cáo sử dụng Nitrate kali ở nồng độ 40 g/L vào hai tuần đầu của tháng 11 cho hai giống xoài Haden và Manila (Lyannaz, 1994). Maas (1989) cũng ghi nhận xoài Keitt và Tommy Atkins ra hoa 100% khi xử lý Nitrate kali ở nồng độ 2% vào cuối mùa mưa (ngày 16/11). Tuổi chồi là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đối với sự đáp ứng với xử lý KNO3. Bugante (1995) cho biết rằng mầm hoa có thể xuất hiện trên chồi từ 4-9 tháng tuổi tuỳ thuộc vào thời gian xuất hiện, nhưng Bondad (1989) khẳng định rằng chồi sáu tháng kể từ khi xuất hiện có thể đáp ứng với việc kích thích ra hoa.

Khảo sát khả năng gây hại của Nitrate ammonium và Nitrate kali, Bondad và Reyes (1991) cho biết phun NH4NO3 ở liều lượng 20-60g/l sẽ gây ra cháy lá, rất độc cho cây xoài trong khi đó Nitrate kali ở liều lượng từ 10-40g/l không làm cháy lá. Bondad và ctv. (1979) cho rằng những báo cáo cho rằng Nitrate kali gây độc cho cây xoài là sự bịa đặt và ông cho rằng nếu có sự độc hại nào đó là do những yếu tố khác trong quá trình phun hơn là gây ra bởi Nitrate kali.

Nhìn chung, hiệu quả của Nitrate kali tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như: tuổi cây, loại vật liệu đem trồng, tuổi chồi, thời điểm kích thích ra hoa, tình trạng mang trái của cây ở những năm trước và nồng độ của hoá chất sử dụng (Bugante, 1993). Bondad (1989) khẳng định rằng ngoại trừ giống xoài Digos, các giống xoài đáp ứng tốt với Nitrate kali thuộc nhóm xoài đa phôi còn những giống không đáp ứng với Nitrate kali thuộc nhóm xoài đơn phôi. Tuy nhiên, cơ chế tác động của Nitrate kali chưa được giải thích rõ (Valmayor, 1987), ngay cả với những cây có những điều kiện rất thích hợp nhưng đáp ứng với Nitrate kali rất kém trong một thời gian nhất định (Astudillo and Bondad, 1978; Bondad, 1983) và một số cây thì cho kết quả không ổn định (Nieves, 1995).

Tuổi lá khi kích thích ra hoa trên gống xoài Châu Hạng Võ
Tuổi lá khi kích thích ra hoa trên gống xoài Châu Hạng Võ

* Thiourea

– Đặc tính của Thiourea

Thiourea là hoá chất có tác dụng kích thích ra hoa trên xoài giống như Nitrate kali, là tác nhân làm phá vỡ miên trạng chồi (Charnvichit, 1992), tức là cũng thúc đẩy sự sản xuất ethylene (Esashi và ctv. 1975). Hiệu quả phá miên trạng thúc đẩy sự phát triển mầm hoa của Thiourea còn được giải thích theo cách khác là tác động giống như Cytokinin vì Halmann (1990) cho rằng hợp chất có chứa urea có thể thể hiện hoạt tính của Cytokinin.

– Hiệu quả của Thiourea lên sự ra hoa

Trên cây đào, Thiourea thúc đẩy cả mầm hoa và mầm lá phát triển ở điều kiện tích luỹ nhiệt độ thấp tối thiểu. Ở Đài Loan, nhiệt độ lạnh hàng năm từ 15-17oC, không đủ để phá miên trạng mầm hoa (đã hình thành dài từ 1,4-1,6 cm) cây Rhododendron pulchrum Sweet nhưng xử lý Thiourea ở nồng độ 0,5% đã làm cho mầm hoa phát triển nhanh hơn so với xử lý các chất phá miên trạng khác như Nitrate kali, dầu khoáng và cyanamic.

Thiourea có thể sử dụng để kích thích ra hoa hay phá miên trạng để ra chồi đồng loạt. Trên giống Nam Dok Mai 3 năm tuổi, Tongumpai và ctv. (1997) phun Thiourea ở nồng độ 0,5-1,0% để kích thích ra đọt tập trung. Ở nồng độ 0,5% cây ra đọt rất đồng đều sau 14-16 ngày, trong khi ở nồng độ 1% làm rụng lá rất nghiêm trọng. Trên giống xoài Kiew Savoey cây cũng ra đọt tập sau 14 ngày xử lý ở nồng độ 0,5%.

Về hiệu quả kích thích ra hoa xoài, Thiourea có tác dụng phá miên trạng và thúc đẩy sự phân hoá mầm hoa như Nitrate kali nhưng hiệu quả cao hơn gấp 2-3 lần. Nguyễn Lê Lộc Uyển (2001) cho biết trên cây xoài Cát Hoà Lộc 3 năm tuổi (nhân giống bằng phương pháp tháp) phun Thiourea ở nồng đố 0,5-0,75% có thể kích thích ra hoa 10% trong mùa nghịch, trong khi Nitrate kali ở nồng độ 2% không có hiệu quả. Ở cây 9 năm tuổi (nhân giống bằng hột) cây ra hoa 40% trong mùa nghịch khi phun Thiourea ở nồng độ 0,5%, cao gấp hai lần so với phun Nitrate kali ở nồng độ 2%. Ở Thái Lan, Thiourea thường được dùng để kích thích mầm hoa, thúc đẩy quá trình ra hoa sau khi đã xử lý PBZ. Charnvichit (1989) cho biết Thiourea có thể thúc đẩy sự phá miên trạng và đạt tỉ lệ ra hoa từ 79,2% và 100% sau khi xử lý PBZ từ 106 và 120 ngày. Tương tự, Tongumpai và ctv. (1997) cho biết trên giống xoài Kiew Savoey, cây sẽ ra hoa 100% khi phun Thiourea ở nồng độ 0,5% ở giai đoạn 120 ngày sau khi tưới gốc PBZ với liều lượng 6 g a.i./cây. Tuy nhiên, nếu xử lý Thiourea trước 75 ngày sau khi tưới gốc PBZ thì cây sẽ ra đọt 100%.

Earlee, tên thương mại của Thiourea ở Phillippines, được tìm thấy rất có hiệu quả như là một chất kích thích ra hoa trên những chồi được phun đầu tiên. Thiourea có hiệu quả kích thích cho xoài ra hoa mùa nghịch cao hơn so với Nitrate kali trên xoài “Pahutan”, “Carabao”, and “Pico” (Bondad, 1994) Nếu dựa trên hiệu quả của toàn cây thì ít nhất nó có hiệu quả gấp 4 bốn lần (Nieves, 1995). Nồng độ tốt nhất của Thiourea là 20 g/L nhưng 10 g/L có thể thấy được hiệu quả kích thích ra hoa (Bondad và ctv., 1978). Ở Thái Lan, nồng độ Thiourea được khuyến cáo ở mức 38-40 g/10 lít nước (Dokmaihom và ctv., 1996). Tuy nhiên, việc tăng nồng độ Thiourea có thể gây ra cháy lá và thiệt hại nghiêm trọng xoài ‘Pahutan’. Phun Thiourea không đều trên lá hay phun ở nồng độ cao dễ làm cháy lá (Hình 4.6), đây là một trở ngại rất lớn cần chú ý khi sử dụng loại hóa chất nầy.

Thiourea có thể kích thích làm phá vỡ sự miên trạng của mầm hoa sau khi xử lý PBZ từ 106-120 ngày và đạt tỉ lệ ra hoa từ 79,2% đến 100% (Charnvichit, 1989). Thiourea cũng là một hoá chất có triển vọng để phá vỡ sự miên trạng mầm hoa của cây sầu riêng. Chandraparnik và ctv. (1992) cho biết phun Thiourea ở nồng độ 1.500 ppm sau khi phun PBZ ở nồng độ 1.000 pm sẽ làm tăng tổng số hoa/cây 75% so với cây chỉ phun PBZ mà không phun Thiourea. Thiourea ở nồng độ từ 0,1-0,3% cũng được phun để kích thích cho chôm chôm và bưởi 5 Roi ra hoa đồng lọat sau khi xử lý paclobutrazol 40-50 trên cây chôm chôm và 30 ngày đối với cây bưởi (Trần Văn Hâu và ctv. 2005).

 Lá xoài bị cháy do phun Thiourea không đều hay nồng độ cao
Lá xoài bị cháy do phun Thiourea không đều hay nồng độ cao

* Chất phóng thích ethylene-Ethrel

Ethrel (2-CEPA) hay ethephon (2-chloroetylene phosphonic acid) là một chất lỏng không màu, không mùi, ổn định ở dạng acid và bị phá hủy ở pH >3,5. Hàm lượng họat chất 400 mg/L, tỉ trọng 1,2, pH = 3. Dễ tan trong nước, ít độc với người và gia súc. Ethrel dạng lỏng chứa 50% họat chất, có nhiều màu sắc khác nhau từ không màu đến màu nâu hoặc xanh. Trong cây etylen được phóng thích từ ethrel theo phản ứng sau (Nguyễn Quang Thạch và ctv., 1999):

ClCH 2 CH 2 − O P ∣ ∣ ∣ OH − OH H 2 O → CH 2 CH 2 + H 3 PO 4 + HCl ClCH 2 CH 2 − O P ∣ ∣ ∣ OH − OH H 2 O → CH 2 CH 2 + H 3 PO 4 + HCl size 12{ ital “ClCH” rSub { size 8{2} } ital “CH” rSub { size 8{2} } – matrix { O {} ## { size 24{P} } cSub { size 8{ \lline } } cSup { size 8{ \lline \lline } } {} ## ital “OH” } – ital “OH” widevec { size 8{H rSub { size 6{2} } O} } ital “CH” rSub {2} size 12{ ital “CH” rSub {2} } size 12{+H rSub {3} } size 12{ ital “PO” rSub {4} } size 12{+ ital “HCl”}} {}

Ngoài tác dụng làm chín trái, rụng bông, Ethrel còn được dùng để kích thích ra hoa trên một số loại cây ăn trái như khóm, xoài, nhãn, chôm chôm,..Trên cây khóm, ở nồng độ 0,1% với liều dùng 10 mL/cây, xử lý bằng cách nhỏ lên noãn hay phun lên lá đều ra hoa 100% sau 6 tuần (Nguyễn Quang Thạch và ctv., 1999).

Nhằm khắc phục tình trạng ra trái cách năm trên cây xoài Langra, Chacko và ctv. (1974) cho biết phun ethephon ở nồng độ 200 ppm liên tục 4-5 lần, cách nhau 15-20 ngày có thể kích thích ra hoa và trái nhiều trong năm nghịch. Kết quả nghiên cứu sau ba năm liên tục cho thấy việc xử lý ethephon không làm ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và khả năng cho năng suất của cây. Tuy nhiên, ở nồng độ từ 500-2.000 ppm sẽ làm rụng lá từ trung bình đến nhiều. Rath và Das (1979) cũng cho biết phun ethephon ở nồng độ 400 mg/L kết hợp với khấc thân làm cho cây xoài ra hoa sớm hơn đối chứng 2 tuần và tỉ lệ ra hoa đạt trên 50%. Bùi Thanh Liêm (1999) khi nghiên cứu biện pháp kích thích ra hoa chôm chôm Java ra hoa sớm bằng cách phun ethephon nhận thấy ở nồng độ 150-200 ppm có thể kích thích chôm chôm ra hoa sớm hơn 1-2 tuần.

Các chất phá miên trạng mầm hoa còn có Hydrogen cyanamide được dùng để phá miên trạng mầm hoa trên cây táo ở những vùng không có đủ số giờ lạnh dưới -7,2 oC (1.000-1.200 giờ) cần thiết cho sự ra hoa (Middleton, 1986). Jackson và Bepete (1995) cho biết ở vùng có 300 giờ lạnh như ở Zimbabwe, phun hydrogen cyanamide ở nồng độ 1,5% làm tăng sự ra hoa, đậu trái và năng suất trên nhiều giống táo.
Chất ức chế quá trình sinh tổng hợp GA

Tổng hợp các bài nghiên cứu về các chất ức chế sinh trưởng, Rademacher (2000) cho biết hiện nay có bốn dạng chất ức chế quá trình sinh tổng hợp GA, bao gồm hợp chất “Onium”, chất dị vòng có chứa chất N, nhóm chất bắt chước cấu trúc của acid 2-oxoglutaric và Nhóm chất 16,17-Dihydro-GA5. Vị trí tác dụng của các chất ức chế trong quá trình sinh tổng hợp GA được trình bày trong Hình 4.7. Các chất ức chế quá trình sinh tổng hợp GA thường không chỉ ảnh hưởng đến quá trình sinh tổng hợp GA mà còn ảnh hưởng đến các chất điều hoà sinh trưởng khác. Điển hình như các chất nầy làm tăng hàm lượng cytokinin nhưng giảm ethylene. ABA cũng tăng đáng kể trong những điều kiện nhất định trong khi auxin thì không ảnh hưởng. Kết quả là nó làm chậm quá trình lão hoá và gia tăng khả năng chống chịu với môi trường (Fletcher và ctv., 1999; Grossmann, 1992). Đối với nhóm triazol như uniconazole hoặc Paclobutrazol cho thấy sự hình thành ethylene cũng giảm do sự ngăn cản của aminocyclopropanecarboxylic acid (ACC). Trên cây lúa mì và cây cải dầu, Prohexadione-Ca làm tăng nồng độ của Cytokinin và ABA trong lúc không làm thay đổi IAA.

Vị trí tác động của một số chất ức chế sự tổng hợp Gibberellin trong quá trình sinh tổng hợp GA - X Vị trí tác động chính - x vị trí tác động phụ
Vị trí tác động của một số chất ức chế sự tổng hợp Gibberellin trong quá trình sinh tổng hợp GA – X Vị trí tác động chính – x vị trí tác động phụ

* Hợp chất Onium

Đặc tính chủ yếu của nhóm nầy là có nhóm ammonium bậc bốn (Hình 2) mà được dùng đầu tiên như là một tác nhân chống lại sự tích trữ (anti-lodging) trong sự sản xuất của cây ngũ cốc và chống lại sự sinh trưởng quá mức trên cây bông vải. Tác dụng của nhóm nầy là ngăn cản quá trình vòng hoá trong sự tổng hợp copalyl diphosphate (CDP) và sự tổng hợp ent-kaurene trong bước đầu tiên tổng hợp GA. Nhóm chất “Onium” nói chung có hiệu quả làm giảm sự sinh trưởng trên thực vật thượng đẳng, mức độ giảm của GA được tìm thấy cùng với sự ức chế sinh trưởng, ít nhiều song song với sự sự giảm của chiều dài chồi. Với chất Chlormequat chloride, bằng phương tiện GC-MS cho thấy hoá chất nầy làm giảm GA1 trong chồi và hạt của cây Triticum aestivum và cũng dẫn đến sự giảm các loại GA khác như GA12, GA53, GA44, GA19 GA 20 GA1, GA8 trên hai giống Sorghum bicolor.

Nhóm nầy bao gồm chlormequat chloride (Cycocel), mepiquate chloride, AMO 1618. Cycocel là chất có đặc tính ức chế sự tăng trưởng, thúc đẩy sự ra hoa, làm giảm sự rụng trái non, cải thiện màu sắc của trái và thời gian tồn trữ của trái. Cycocel có hiệu quả ức chế sự sinh trưởng rõ rệt trên cây trưởng thành hơn cây còn tơ. Trên cây xoài Langra trưởng thành, nồng độ 2.000 ppm làm giảm sự sinh trưởng có ý nghĩa nhưng trên cây xoài Langra và Baramasia còn tơ phải áp dụng nồng độ 4.000 ppm. Rojas và Leal (1995) cho biết xử lý Mepiquat chloride ở nồng độ 1 hoặc 2,5 g/L, 3 tuần sau phun Nitrate 6% cũng kích thích ra hoa sớm hơn so với đối chứng 9 tuần trên cây xoài Haden 2 năm tuổi.

Cấu trúc của nhóm chất dạng Onium - I Chlormequat chloride - II Mepiquat chloride
Cấu trúc của nhóm chất dạng Onium – I Chlormequat chloride – II Mepiquat chloride

* Nhóm chất dị vòng có chứa N

Đặc tính căn bản của nhóm chất nầy là ngăn chặn quá trình cytochrom P450-dependent monooxygenase, bằng cách nầy nó ngăn cản sự oxid hoá ent-kaurene thành ent-kaureonic acid. Nhóm nầy bao gồm các chất Tetracyclacis, Ancymidol, Uniconazole và chất được ứng dụng rộng rãi nhất là Paclobutrazol. Uniconazole có cấu trúc gần giống với Paclobutrazol và rất có hiệu quả trên cây ăn trái, lúa và cây cảnh.

– Đặc tính của Paclobutrazol (PBZ)

Tên hoá học của PBZ là: (2RS,3RS)-1- (4-chlorophenyl)-4,4-dimethylethyl-2-(1H-1,2,4-triazol-l-yl) pentan-3-ol và có công thức hoá học tổng quát là C16H20ClN3O (Hình 4.9). PBZ là chất lưu dẫn có thể được mang lên bằng rễ, đi xuyên qua lỗ thân hoặc cả tế bào chết. PBZ di động trong mô xylem và di chuyển lên bằng sự thoát hơi nước (Charler, 1987). Khi hoà tan vào dịch mô gỗ, PBZ sẽ đi qua từng đoạn thân, nhưng Blake và Quinlan (1991) ghi nhận rằng tế bào của cây táo giữ PBZ lại nhiều hơn cây cherry. Điều nầy đưa đến kết luận rằng sự vận chuyển trong cây tốt là yếu tố xác định độ mẫn cảm đối với PBZ của cây cherry tốt hơn so với cây táo. Trên cây bơ, Zikah và David (1991) nhận thấy PBZ có thể được hấp thu bởi hầu hết các bộ phận của tán cây và rễ và hai ông cũng cho biết rằng PBZ được chuyển chủ yếu đến đến cơ quan sinh trưởng dinh dưỡng, nơi mà nó sẽ tác động làm chậm sự sinh trưởng. PBZ là một chất làm chậm sự tăng trưởng (retardant) thông qua sự ức chế quá trình sinh tổng hợp GA. PBZ có thể được hấp thu qua lá, tán cây, thân và rễ, được di chuyển qua mô xylem đến bên dưới chồi sinh mô. Ở đó nó ngăn cản quá trình sinh tổng hợp GA và làm chậm tốc độ phân chia tế bào, làm cho thực vật trở nên già cỗi hơn làm gia tăng việc sản xuất hoa và nụ trái. Khi nghiên cứu tác động làm chậm sự sinh trưởng của PBZ lên cây táo, Wang và ctv. (1986) nhận thấy rằng khi phun PBZ lên lá ở nồng độ 333 ppm và quét lên thân ở nồng độ 75 g/L thì không có ảnh hưởng lên sự sinh trưởng của chồi và thành phần polysaccharide của vách tế bào trong năm đầu nhưng ở năm tiếp theo thì thành phần polysaccharide của vách tế bào bị biến đổi và làm ức chế sự tăng trưởng của chồi. Khảo sát thành phần polysaccharide của vách tế bào tác giả thấy rằng xử lý PBZ làm tăng tỉ lệ rhamnose, arabinose và acid galacturonic nhưng giảm cellulose và tỉ lệ của các chất trong xylem/libe giảm. Trên cây táo con khi được xử lý PBZ ở nồng độ 0,1 mM bằng cách nhúng trong 1 phút (ngoại trừ phần rễ) 7 ngày trước khi chịu sự khô hạn (water stress), Wang và Steffens (1985) nhận thấy tỉ lệ mất nước của cây được xử lý PBZ chậm hơn, làm giảm sự tổng hợp ethylene, giảm 44% putrescine và 38% spermidine nội sinh. Từ kết quả nầy tác giả cho rằng PBZ có tác dụng làm giảm sự tổng hợp ethylene, ngăn cản sự gia tăng các chất polyamine tự do sinh ra do sự khô hạn như putrescine và spermidine. Khi xử lý PBZ bằng cách tưới vào đất ở liều lượng 2,5 g a.i./cây đã làm giảm sức mạnh của cây xoài khoảng 50% so với đối chứng. Tác động của PBZ đã làm tăng hàm lượng phenolic trong chồi ngọn, làm tăng tỉ lệ mô gỗ trên mô libe trong thân, làm giảm hàm lượng ABA nội sinh và mức độ Cytokinin hoạt động (Iyer và Kurian, 1992).

Công thức cấu tạo của Paclobutrazol
Công thức cấu tạo của Paclobutrazol

Tuỳ thuộc vào điều kiện khí hậu và sự nhạy cảm của giống, việc xử lý PBZ có thể hiệu quả tạo ra trái mùa nghịch, cho trái sớm, làm giảm hiện tượng cho trái cách năm cũng như những cây ra trái không ổn định (Voon và ctv., 1991). PBZ được sử dụng khá phổ biến ở Thái Lan để kích thích cho xoài ra hoa mùa nghịch hay giúp cho cây ra hoa đồng loạt trong mùa thuận (Tongumpai và ctv., 1991).

– Phương pháp xử lý PBZ

Hiệu quả của PBZ lên sự ra hoa xoài phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giống, tuổi cây, tuổi lá, khí hậu và kỹ thuật xử lý.

+ Giống: Hiệu quả của PBZ lên sự ra hoa còn phụ thuộc vào từng giống khác nhau (Lyannaz, 1994; Mossak, 1996). Trên giống Nam Dok Mai xử lý PBZ với liều lượng 4 g a.i./cây có hiệu quả kích thích ra hoa cao nhất, trong khi đó trên giống Harumanis (Indonesia), 3,76 g a.i./cây thì đủ liều lượng để kích thích ra hoa (Voon và ctv., 1991).

+ Tuổi lá: Ở Thái Lan, việc xử lý PBZ thường được tiến hành khi đợt đọt thứ nhất có màu xanh sáng, 3-4 tháng tuổi, nếu không xử lý PBZ cây xoài sẽ ra đợt đọt thứ hai (Dokmaihom và ctv.,1996).

+ Kỹ thuật xử lý: Do PBZ có thể được rễ hấp thụ và chuyển lên lá cũng như có thể hấp thụ trực tiếp qua lá nên có thể xử lý hoá chất nầy bằng cách tưới vào đất hay phun lên lá. Tongumpai và ctv. (1997b) áp dụng biện pháp phun PBZ lên lá ở nồng độ từ 1.000-2.000 ppm để kích thích xoài ra hoa trong mùa nghịch ở Thái Lan, kết quả cho thấy việc phun PBZ lên lá làm cho cây xoài ra hoa sớm hơn đối chứng từ 29 – 41 ngày. Trong khi đó biện pháp xử lý PBZ bằng cách tưới vào đất với liều lượng từ 1-2 g a.i./m đường kính tán cây được nhiều tác giả công bố. Để tính liều lượng áp dụng PBZ bằng phương pháp tưới vào đất, González và Blaikie (2003) không những dựa vào đường kính tán cây mà còn dựa vào chiều cao cây và hệ số 1,25. Công thức tính toán cụ thể như sau: nồng độ PBZ (g a.i./cây) = [chiều cao cây + trung bình đường kính tán]/2*1,25. Áp dụng nồng độ PBZ theo cách tính nầy đã khắc phục được tình trạng ra hoa không ổn định của giống xoài Kensington Pride và đạt năng suất cao gấp 2-3 lần so với đối chứng. Sergent và ctv. (1997) cho biết tưới vào đất ở liều lượng độ 15 g a.i./cây kích thích ra hoa và giúp cho cây xoài khắc phục được hiện tượng ra trái cách năm trên giống xoài Haden. Trần Văn Hâu (1997) tưới gốc ở liều lượng 5 g a.i./cây trên xoài cát Hoà Lộc 8 năm tuổi trong mùa nghịch làm tăng tỉ lệ ra hoa và năng suất gấp hai lần so với đối chứng. Tuy nhiên, Rademacher (2000) cho biết PBZ được vận chuyển hầu như hoàn toàn trong cây nhưng hấp thụ tương đối kém ở các bộ phận của chồi nên tưới vào đất là biện pháp áp dụng đạt kết quả hơn.

Nhằm xác định phương pháp xử lý PBZ hiệu quả nhất, Buronkar và Gunjate (1993) đã so sánh hiệu quả của hai phương pháp xử lý PBZ là phun lên lá ở nồng độ 500, 1.000 và 2.000 ppm và tưới vào gốc ở liều lượng 5 và 10 g a.i./cây trên sự ra trái cách năm của cây xoài Alphonso 16 năm tuổi trong 3 năm liên tục. Kết quả cho thấy rằng ngoại trừ biện pháp phun lên lá ở nồng độ 500 ppm không có hiệu quả so với đối chứng, cả hai biện pháp xử lý của PBZ đều làm cho cây xoài ra hoa sớm hơn so với đối chứng 3-4 tuần, tỉ lệ ra hoa, năng suất cao hơn 2,6 lần và làm giảm đặc tính ra trái cách năm nhưng không làm ảnh hưởng đặc tính của trái. Tuy vậy, biện pháp xử lý tưới vào gốc có nhiều tiện lợi, dễ áp dụng và ít chi phí hơn so với biện pháp phun lên lá (Burondkar and Gunjate, 1993; Burondkar và ctv., 1997) và có hiệu quả làm tăng sự ra hoa và năng suất (Winston, 1992). Qua thí nghiệm xử lý ra hoa cho xoài Khiew-Savoey 3 năm tuổi bằng cách tưới PBZ (6 g/cây) và sau đó kích thích ra hoa bằng Thiourea ở nồng độ 0,5%, Tongumpai và ctv. (1997a) cho rằng quá trình hình thành mầm hoa hoàn tất sau khi xử lý PBZ 90 ngày, nếu kích thích ra hoa sớm hơn thời gian nầy cây chỉ ra chồi hoặc tỉ lệ ra chồi thấp.
– Hiệu quả của PBZ lên sự ra hoa, năng suất và phẩm chất trái

Sự khác nhau cơ bản của PBZ và Nitrat kali lên sự ra hoa xoài là Nitrate kali phá sự miên trạng mầm hoa, thúc đẩy sự phân hoá mầm hoa làm cho hoa phát triển trong khi PBZ thúc đẩy sự hình thành mầm hoa thông qua việc ức chế quá trình sinh tổng hợp GA, làm giảm nồng độ GA ở chồi ngọn (Tongumpai và ctv., 1991). Do đó, Nunẽz-Elisea và ctv. (1993) xử lý PBZ bằng cách phun lên lá ở nồng độ từ 1.000-2.000 ppm trong điều kiện chế độ nhiệt 30oC/25oC (ngày/đêm) cây xoài không ra hoa sau 75 ngày, trong khi nếu xử lý hoá chất trong điều kiện nhiệt độ 18oC/10oC thì cây ra hoa trên 90%. Điều nầy cho thấy rằng nhiệt độ thấp đã làm phá miên trạng và thúc đẩy sự ra hoa. Như vậy, PBZ chỉ có tác dụng thúc đẩy sự hình thành mầm hoa. Trần Văn Hâu (1997) nhận thấy khi xử lý ra hoa cho xoài cát Hoà Lộc 8 năm tuổi ở Cao Lãnh, Đồng Tháp bằng cách tưới Paclobutrazol vào đất ở liều lượng 5 g a.i/cây, cây xoài ra hoa sau 92 ngày mà không cần kích thích ra hoa mặc dù tỉ lệ ra hoa thấp (15,6%). Để xác định thời kỳ phá miên trạng, thúc đẩy sự ra hoa có hiệu quả nhất sau khi xử lý PBZ trên cây xoài Cát Hoà Lộc 5 năm tuổi, Nguyễn Thị Thuỳ Dung (2002) tưới PBZ vào đất ở liều lượng 4 g a.i/cây và sau đó kích thích ra hoa bằng Thiourea ở nồng độ 0,5% ở những thời điểm khác nhau. Kết quả cho thấy rằng kích thích ra hoa ở thời điểm 2 tháng sau khi xử lý PBZ có hiệu quả kích thích ra hoa, nhưng phát hoa ngắn, số hoa/phát thấp nên năng suất thấp hơn so với nghiệm thức kích thích ra hoa ở giai đoạn 3 tháng sau khi phun PBZ.

Kích thích ra hoa xoài Haden 4 năm tuổi bằng cách tưới PBZ vào đất ở các nồng độ 5-15 g a.i./cây, Ferrari và Sergent (1996) nhận thấy tất cả các nghiệm thức có xử lý PBZ đều cho tỉ lệ ra hoa cao hơn, thời gian ra hoa kéo dài hơn so với đối chứng, đặc biệt phát hoa xuất hiện ở dưới chồi ngọn và cả chồi nách mà đều nầy không xuất hiện ở nghiệm thức đối chứng. Trên cây xoài Alphonso 34 năm tuổi, xử lý PBZ vào tháng 7 với liều lượng từ 2,5-10 g a.i./cây giúp cho cây ra hoa sớm hơn cây đối chứng từ 11,4 – 28,8 ngày và đạt tỉ lệ ra hoa 70,3-91,6% so với 3% ở nghiệm thức đối chứng. Kết quả thí nghiệm nầy cho thấy rằng tỉ lệ ra hoa tăng dần khi tăng liều lượng PBZ từ 2,5 g a.i./cây đến 10 g a.i./cây (Burondkar và ctv., 1997). Ở Darwin thuộc miền Bắc nước Úc là vùng có khí hậu nhiệt đới, nhiệt độ ấm làm cho giống xoài Kensington Pride ra hoa và đậu trái không ổn định. Blaikie và Kulkarni (2002) đã tiến hành khảo sát hiệu quả của việc xử lý PBZ bằng cách tưới vào đất hàng năm sau khi thu hoạch nhằm ức chế sự tổng hợp GA. Kết quả ở năm đầu tiên cho thấy biện pháp nầy đã làm cho cây xoài ra hoa sớm hơn nhiều tuần, hoa ra mạnh hơn và năng suất tăng 50% so với nghiệm thức đối chứng.

Salomon và Reveuni (1994) tìm thấy xử lý PBZ ở liều lượng 20, 60 và 240 mg/cây cho cây xoài 13-1 (xoài dùng làm gốc ghép của Israel) nhân giống từ hột được trồng trong chậu đạt tỉ lệ ra hoa 95-100% trong mùa xuân, 32 tháng sau khi nẩy mầm, tỉ lệ ra hoa không phụ thuộc vào liều lượng PBZ áp dụng so với 25% cây ra hoa ở cây không xử lý PBZ.

Khảo sát sự liên hệ giữa việc xử lý nhiệt độ thấp và phun các chất ức chế tăng trưởng thuộc nhóm triazol như PBZ và Uniconazol (nồng độ 2.000 ppm và 500 ppm, theo thứ tự) lên sự ra hoa xoài Tommy Atkin, Núnẽz-Elisea và ctv. (1993) cho biết việc xử lý hoá chất kết hợp với xử lý nhiệt độ lạnh ở chế độ ngày và đêm 18oC/10oC kích thích ra hoa hơn 90% số chồi so với 74% ở nghiệm thức chỉ xử lý nhiệt độ lạnh và sự kết hợp nhiệt cũng làm cho cây xoài ra hoa sớm hơn nghiệm thức chỉ xử lý nhiệt độ thấp 21 ngày. Trong khi đó, ở nghiệm thức xử lý hoá chất ức chế tăng trưởng trong điều kiện nhiệt độ cao (30oC/25oC) đã làm giảm sự sinh trưởng và chiều dài cơi đọt nhưng không kích thích ra hoa. Điều nầy cho thấy rằng yếu tố nhiệt độ thấp là yếu tố quan trọng quyết định sự ra hoa trên cây xoài. Việc phun các chất ức chế tăng trưởng có tác dụng thúc đẩy sự ra hoa tốt hơn trong điều kiện nhiệt độ thấp nhưng nếu trong điều kiện nhiệt độ cao thì việc xử lý các hoá chất ức chế sinh trưởng như PBZ hay Uniconazol cũng không đem lại hiệu quả mà chỉ làm giảm sự sinh trưởng của cây xoài mà thôi.

Ờ Ấn Độ, Burondkar and Gunjate (1991) cho biết xử lý PBZ ở liều lượng bằng cách tưới vào gốc với liều lượng 6g a.i./cây đã làm tăng tỉ lệ ra hoa trong năm thuận cũng như năm nghịch so với đối chứng. Ở Thái Lan, Charnvichit (1989) cho biết xoài Kiew Savoey ra hoa đầu tiên sau khi xử lý PBZ từ 91-112 ngày. Tuy nhiên trong mùa nghịch cần tiến hành xử lý phá miên trạng mầm hoa hoa bằng Nitrat kali ở giai đoạn 8 – 10 tuần sau khi xử lý PBZ (Voon và ctv., 1991). Trên cây xoài Kiew Savoey 2 năm tuổi xử lý PBZ bằng cách tưới vào đất ở liều lượng 6 g a.i./cây và sau đó phun Nitrate kali ở nồng độ 2% ở giai đoạn 8 và 10 tuần sau khi xử lý PBZ đạt tỉ lệ ra hoa lần lượt là 13,8% và 21,3% (Juthamanee, 1989)

Khi phun PBZ ở nồng độ 2.000 hoặc 3.000 mg/L sẽ làm tăng phẩm chất trái qua việc làm tăng TSS, TA hàm lượng ascorbic acid, hàm lượng carotenoid, tinh bột và tồn trữ được 12 ngày trong điều kiện nhiệt độ phòng (Khader, 1990).

– Ảnh hưởng của PBZ lên năng suất

Từ tác động của PBZ làm tăng tỉ lệ ra hoa và đậu trái dẫn đến làm tăng số trái/cây. Khi xử lý PBZ trên cây xoài Haden 5 năm tuổi ơ liều lượng 15 g a.i./cây, Sergent và ctv. (1997) cho biết kết quả đạt năng suất rất tốt và giảm được hiện tượng ra trái cách năm trên giống xoài nầy. Vuillaume (1991) cũng ghi nhận khi tưới gốc với liều lượng 16 g trên 3 giống xoài Keitt, Brooks và Lippens đã làm tăng số trái và trọng lượng trái trên cây. Voon và ctv. (1991) cho biết cây xoài xử lý PBZ làm tăng số trái/cây nhưng không là giảm kích thước trái. Phun PBZ ở nồng độ 2.000ppm làm tăng số trái/cây (126 trái) cao hơn so với phun Nitrate kali ở nồng độ 2,6% và 1,26% kết hợp với ethephon ở nồng độ 400 ppm trên cây xoài Kiew Savoey (Yotpetch, 1988).

– Ảnh hưởng bất lợi và sự lưu tồn của PBZ

Quan tâm đến những ảnh hưởng bất lợi khi sử dụng PBZ liên tục trong nhiều năm, Rowley (1990) nhận thấy chiều cao cây vãi giảm sau 19 tháng xử lý PBZ bằng cách tưới vào đất. Winston (1992) cho thấy rằng năng suất có khuynh hướng giảm nếu áp dụng PBZ liên tiếp hai năm liền ở cùng một nồng độ. Ở liều lượng lớn hơn 4g a.i./cây làm cho phát hoa ngắn, kết chặt lại một cách không bình thường. Trên cây xoài Thanh Ca 4 năm tuổi xử lý 4 g a.i./cây tương đương với 1 g a.i./m đường kính tán cũng gây ra hiện tượng tương tự (Trần văn Hâu, thông tin cá nhân, chưa xuất bản). Hai ông cũng cho ghi nhận trong hai năm đầu áp dụng PBZ (ngoại trừ việc phun ở nồng độ 500ppm ở năm thứ hai) thì cả hai biện pháp phun lên lá hay tưới vào đất đều thúc đẩy sự ra hoa sớm hơn so với đối chứng nhưng trong năm thứ ba thì biện pháp phun lên lá không có hiệu quả. Do đó, Goguey (1990) kết luận rằng nên sử dụng PBZ trong hai năm liên tục, sau đó nghỉ một năm trước khi bắt đầu một chu kỳ mới.

Ảnh hưởng bất lợi của PBZ lên sự sinh trưởng của cây xoài cũng được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Ap dụng phương pháp tưới vào đất liên tục trong 3 năm ở liều lượng 5 và 10g a.i./cây xoài 16 năm tuổi làm giảm tỉ lệ ra đọt (5,12% so với 48% ở nghiệm thức đối chứng), chiều dài chồi mới xuất hiện ngắn hơn so với đối chứng (12,2 và 11,3 cm so với 19,5 cm) (Buronkar và Gunjate, 1993). Trên cây xoài giống Blanco 1,5 tuổi xử lý PBZ bằng cách phun lên lá (750, 1.125 và 1.500 ppm) hay tưới vào đất (750, 1.500 và 2.250 mg/cây), Werner (1993) tìm thấy ở tất cả các nghiệm thức đều làm giảm kích thước lá. Tác giả cũng nhận thấy việc xử lý PBZ bằng cách tưới vào đất làm ảnh hưởng đến hàm lượng các chất dinh dưỡng trong lá, trong đó, chất P, K và Cu giảm nhưng N, Ca, Mn và Zn thì lại tăng. Trên cây xoài Nam Dok Mai Twai No. 4 Charnvichit và ctv. (1991) tìm thấy rằng ở liều lượng 1,5 g a.i./m đường kính tán có thể làm giảm chiều cao cây và chiều rộng tán lần lượt là 19,3% và 15,8% và thông qua chiều dài của đọt non mới xuất hiện cho thấy ảnh hưởng của PBZ lên sự sinh trưởng kéo dài một năm.

Ngoài ảnh hưởng bất lợi cho cây trồng khi xử lý PBZ thì ảnh hưởng lưu tồn của hoá chất nầy trong đất và trong các bộ phận của cây cũng là một vấn đề quan trọng được nhiều người quan tâm nghiên cứu. Qua thí nghiệm xử lý PBZ bằng biện pháp tưới vào đất với liều lượng 8 g a.i./cây, phun lên lá ở nồng độ 1.000 ppm dưới điều kiện có và không có che phủ mặt líp và tiêm vào thân với liều lượng 400mg/cây trên cây xoài Nam Dok Mai, Subhadrabandhu và ctv. (1999) nhận thấy PBZ không lưu tồn trong đất nếu xử lý bằng phương pháp tiêm vào thân hoặc phun lên lá mà có che phủ mặt líp, trong khi đó PBZ lưu tồn trong đất 3 tháng khi phun lên lá mà không có che phủ mặt líp và lưu tồn 11 tháng nếu xử lý bằng phương pháp tưới vào đất. Về sự lưu tồn của PBZ trong lá, kết quả nghiên cứu nầy cho thấy rằng mức độ lưu tồn của hoá chất cao nhất khi phun lên lá trong khi phương pháp tưới vào đất hoặc tiêm vào thân thì mức độ lưu tồn rất thấp và tác giả không tìm thấy có sự lưu tồn của hoá chất trên trái xoài qua tất cả các biện pháp xử lý.

Tóm lại, hiện nay PBZ được coi là chất có tác dụng ức chế quá trình sinh tổng hợp GA có hiệu quả nhất và là phương tiện có hiệu quả trong việc kiểm soát sự ra hoa xoài. Tuy vậy, để sản xuất xoài mùa nghịch có hiệu quả Nartvaranant và ctv. (2000) khuyến cáo những kỹ thuật chủ yếu như sau:

Sử dụng PBZ bằng cách phun lên lá hay tưới vào đất ở nồng độ thích hợp.

Sử dụng những giống xoài có đặc tính ra hoa sớm như: Nam Dok Mai Tawai (sớm), Fahlan, Salaya, Chok Anan, và Boon Bun Dan.

Chọn vùng thích hợp có điều kiện nhiệt độ thấp, có sự khô hạn cần thiết và đất phải thoát nước tốt.

 Quản lý nước tốt, đặc biệt là rất khó trong mùa mưa

Tuy nhiên, điều cần phải lưu ý là việc kích thích ra hoa chỉ đạt kết quả trên những cây khoẻ, còn những cây không có đủ các chất carbohydrate biến đổi sẽ đáp ứng rất kém với sự xử lý PBZ (Phavaphutanon và ctv., 2000).

Xử lý paclobutrazol bằng cách phết vào gốc thân
Xử lý paclobutrazol bằng cách phết vào gốc thân

* Nhóm chất bắt chước cấu trúc của acid 2-oxoglutaric

Nhóm chất bắt chước cấu trúc của acid 2-oxoglutaric là chất có chất nền kết hợp của hai quá trình oxid hoá, xúc tác các bước sau trong quá trình hình thành GA. Nghiên cứu với sự điều chế tế bào tự do phát hiện rằng hầu hết các bước tiếp theo sau GA12-aldehyde đền bị ngăn cản bởi prohexadione-Ca. Sự hydroxylation ở vị trí 3 (hình thành GA1 từ GA20) và ở vị trí 2 (sự biến đổi của GA1 thành GA8). Tác động của nhóm nầy là ngăn cản một cách đặc biệt 3-hydroxylation, từ đó ngăn cản sự hình thành các GA có hoạt tính cao từ các tiền chất không hoạt động. Nhóm nầy bao gồm các chất Prohexadione-Ca, Trinexapact-ethyl và Daminozide (B-995, SADH). Các chất trong nhóm nầy được dùng để ổn định thân cây ngũ cốc, hoa màu và cây cải dầu; kiểm soát sự sinh trưởng của cỏ trồng và làm giảm sự sinh trưởng dinh dưỡng trên cây ăn trái.
Hình 4.12 Cấu tạo của nhóm chất bắt chước cấu trúc của 2-oxoglutaric. I: Prohexadione-Ca; II: Trinexapacethyl; III: Daminozide (SADH, B-995, B-9 hoặc Alar); IV: 2-oxoglutaric acid.

Phát hoa xoài Thanh Ca bị ảnh hưởng do xử lý paclobutrazol với liều lượng 40 g trên 1 cây lọai Paclobutrazol 10%
Phát hoa xoài Thanh Ca bị ảnh hưởng do xử lý paclobutrazol với liều lượng 40 g trên 1 cây lọai Paclobutrazol 10%

* Nhóm chất 16, 17-Dihydro-GA5

Nhóm 16, 17-Dihydro-GA5 và những cấu trúc liên quan tác động chủ yếu bởi sự bắt chước tiền chất GA của hai quá trình oxid hoá tương tự. Bằng chứng cho thấy hiệu quả ức chế sinh trưởng do sự ngăn cản sự oxid hoá trong giai đoạn sau (hình thành GA1) của quá trình sinh tổng hợp GA, đặc biệt là sự hydrogen hoá nhóm 3. Nhóm nầy bao gồm các chất exo-16, 17-Dihydro-GA5-13-acetat. Các dẫn xuất của 16, 17-dihydro đặc biệt là GA5 có tương tác rất đặc biệt với sự hình thành GA của các loài cỏ thuộc loài Graminae. Hiệu quả của 16, 17 dihydro-GAs tương tự như prohexadione-Ca, tức là làm giảm nồng độ GA1 trong khi nồng độ GA20 thì tăng đáng kể trên cây Sorghum bicolor.
Hình 4.13 Cấu tạo của chất 16, 17-dihydro-GAs exo 16, 17-Dihydro-GA5-13 acetate
Chlorate kali (KClO3)

Bắt đầu từ giữa năm 1999, việc sử chlorat kali kích thích ra hoa có hiệu quả trên cây nhãn E-daw (giống nhãn khá nổi tiếng của Thái Lan) trồng ở Đồng Nai và những kết quả từ Thái Lan cho biết việc sử dụng chlorate kali để kích thích cho nhãn ra hoa đã làm xôn xao dư luận người trồng nhãn. Bởi vì từ lâu, người trồng nhãn chỉ áp dụng biện pháp kích thích cho nhãn ra hoa chủ yếu bằng biện pháp khoanh cành mà kết quả thường không ổn định, đặc biệt là trong mùa nghịch. Do đó, việc tìm ra một hóa chất có hiệu quả kích thích ra hoa có hiệu quả và ổn định rất có ý nghĩa rất lớn về mặt khoa học cũng như trong sản xuất.

* Đặc tính của Chlorate kali

Chlorate kali là một chất có tính oxid hóa rất mạnh, phóng thích ra khí oxy khi bị oxid hóa (KCLO3  KClO + O2), có thể dùng như một chất diệt cỏ, làm lá bị vàng và rụng khi phun lên lá hoặc làm rễ và chóp rễ bị thối khi tưới vào đất. Khi áp dụng ở nồng độ thấp hơn liều lượng để diệt cỏ, chlorate kali sẽ làm lá bị vàng, tinh bột trong thân và rễ bị phân hủy. Chlorate kali là một chất dễ cháy và gây nổ khi hỗn hợp với một số chất khác như một số loại phân bón có gốc ammonium. Theo khuyến cáo của các cơ quan nghiên cứu thì việc bảo quản chlorate kali cần phải tránh những những va chạm, ma sát. Tránh xa những chất dễ gây cháy như xăng dầu, các chất hữu cơ, acid, các muối ammonium (như phân SA). Không nên để hóa chất trên sàn gỗ. Tránh gây ra cháy, nổ khi vận chuyển chlorate kali cũng là vấn đề cần được quan tâm đúng mức để bảo đảm sự an toàn về người và tài sản. Các nguyên tắc an toàn khi sử dụng hóa chất phải được chấp hành nghiêm ngặt để đề phòng ảnh hưởng của hóa chất đến sức khỏe của người sử dụng

Ngoài ra, việc tiếp xúc với hóa chất qua da, mắt, nuốt vào bụng hay hít vào phổi cũng có thể làm ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe của người sử dụng.

Do khả năng có thể gây cháy, nổ nên chlorate kali phải được sử dụng với một chất chống cháy hòa tan trong nước như Magnsium chloride (MgCl2) hoặc urê và phải được bảo quản rất kỹ trong điều kiện mát, khô ráo, ngăn cản sự cháy bằng cách tránh xa các chất acid, chất hữu cơ, lưu huỳnh, bột kim loại, muối ammonium và tránh xa các vùng có nguy cơ cháy.

* Biện pháp xử lý

Tổng kết một số biện pháp xử lý ra hoa trên nhãn ở Thái Lan bằng Chlorate kali, Manochai và ctv. (2005) cho biết có thể tưới vào đất với liều lượng 4-8 g/m2 tùy theo giống, phun lên lá ở nồng độ 1.000 ppm hoặc tiêm vào thân với liều lượng 0,25 g/cm đường kính nhánh. Trong mùa lạnh và khô có tỉ lệ ra hoa cao (80-90%) hơn so với mùa mưa (dưới 50%). Xử lý khi lá 40-45 ngày tuổi. Xử lý bằng cách phun lê lá, Lê Văn Bé và ctv. (2003) nhận thấy ở nồng độ 2.000-4.000 ppm cây nhãn Da Bò ra hoa 100% sau khi xử lý 30 ngày. Mặc dù biện pháp xử lý bằng phương pháp tiêm vào thân không gây ảnh hưởng đến môi trường đất và làm chết rễ nhưng do khó áp dụng nên nhà vườn vẫn áp dụng biện pháp tưới vào đất. Theo Wong (2000) nồng độ xử lý KClO3 tùy thuộc vào một số yếu tố sau:

Tán cây: Tán cây càng rộng lượng hóa chất càng nhiều
Loại đất: Đất cát hiệu quả cao hơn đất sét
Nguồn nước: Cần thiết cho vùng mưa không đều
Sức khỏe của cây: Cây phải khỏe và miên trạng trong sự sinh trưởng dinh dưỡng
Sự quản lý vườn
Giống: Giống E-Daw xử lý 8 g/m2, trong khi giống Si-Chompoo xử lý 1-4 g/m2

* Tác động bất lợi của chlorate kali

Hiện nay việc xử lý cho nhãn ra hoa bằng chlorate kali chủ yếu áp dụng biện pháp tưới vào gốc vì biện pháp phun lên lá làm lá rụng và hiệu quả kém hơn. Khi tưới chlorate kali vào đất, hóa chất sẽ được rẽ cây nhãn hấp thu và sau đó làm chết rễ. Rễ cây nhãn hấp thu hóa chất càng nhanh khi đất càng ẩm ướt. Nếu sau khi tưới hóa chất vào đất mà không tiếp tục tưới nước cho cây nhãn liên tiếp hai ba ngày sau thì hiệu quả hấp thu hóa chất vào rễ sẽ kém. Nói cách khác là tỉ lệ ra hoa sẽ thấp. Do hóa chất được hấp thu vào rễ trong đất nên hiệu quả của việc xử lý tùy thuộc vào đặc tính của đất. Việc chảy tràn do đất sét nặng hay bị thấm lậu do đất có thành phần cơ giới quá nhẹ sẽ làm giảm hiệu quả của hóa chất. Do tác động của chlorate kali là làm chết rễ, đặc biệt là ở các chóp rễ-nơi tổng hợp ra các chất điều hóa sinh trưởng chuyển lên thân, lá – có thể đã làm cho cây nhãn bị ‘stress’ và kích thích cây nhãn ra hoa. Như vậy khi tưới hóa chất vào đất với nồng độ càng cao sẽ làm cho rễ cây nhãn chết càng nhiều gây ra hiện tượng ‘stress’ trên cây nhãn càng mạnh có thể làm chết cây. Khảo sát tác động của chlorate kali lên sự biến đổi hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất, Lê Văn Bé và ctv. (2003) nhận thấy 7 ngày sau khi xử lý hàm lượng đạm dễ tiêu dạng NH4+ tăng lên 18 lần, NO3- tăng 12 lần, lân dễ tiêu tăng 3 lần và kali trao đổi tăng một ít so với đối chứng. Tác giả cho rằng chlorate kali đã oxid hóa chất hữu cơ trong đất làm tăng các chất vô cơ nầy và đây có lẽ là ngyên nhân làm cho lá nhãn cây có xử lý chlorate kali có màu xanh một cách bất thường (tăng hàm lượng diệp lục tố) ở gai đọan ra hoa.

Qua kết quả bước đầu khảo sát tác động của chlorate kali lên rễ của cây nhãn Da Bò cho thấy tưới vào đất ở nồng độ 80 g/m đường kính tán rễ non bị thiệt hại đến 50 % và tỉ lệ rễ bị thối nhũn đạt 20 % sau 3 ngày kể từ khi tưới hóa chất vào đất và tỉ lệ nầy giảm còn 23 % sau 3 tháng. Đối với nồng độ 20 g/m đường kính tán thì chỉ có 12 % rễ bị thiệt hại sau ba ngày và 15 % rễ bị nhũn sau 7 ngày và sự thiệt hại của rễ chỉ còn khoãng 5 % sau ba tháng. Về tác động của chlorate kali lên sự ra hoa trong mùa thuận của cây nhãn Tiêu Da Bò thì nồng độ từ 20-80 g/m đường kính tán đều cho tỉ lệ ra hoa trên 80 % và không khác biệt với biện pháp xử lý khoanh cành (Trần Văn Hâu và ctv., 2002). Khi khảo sát tác dộng của Chlorate kali lên đặc tính sinh lý của cây, Hegele và ctv. (2004) nhận thấy sau khi xử lý chlorate kali quang hợp của cây giảm 10 lần.

Khảo sát dư lượng trong trái nhãn “Do” dưới ảnh hưởng của biện pháp xử lý cholrate kali, Kanaree và Pankasemsuk (2005a) không tìm thấy sự hiện diện của ClO3–, ClO2– và ClO– trong thịt trái, trong khi hàm lượng K+ và Cl- không khác biệt giữa trái có và không xử lý. Kanaree và Pankasemsuk (2005b) cũng nhận thấy khi xử lý chlorate kali ở các nồng dộ 0, 200, 500 và 800 g/cây không làm ảnh hưởng đến một số chỉ tiêu đánh giá phẩm chất trái như kích thước trái, kích thước hạt, màu sắc vỏ trái, TSS, trọng lượng trái tươi và trọng lượng trái khô.

Hiện nay việc sử dụng chlorate kali để kích thích cho nhãn ra hoa quanh năm hầu như đã được khẳng định ở Thái Lan (Hegele và ctv., 2004). Tổng hợp các kết quả nghiên cứu hiệu quả của chlorate kali lên sự ra hoa nhãn trong mùa nghịch, cho thấy biện pháp tưới vào đất ở giai đoạn lá lụa với nồng độ từ 15-30 g/m đường kính tán đạt hiệu quả cao trong khi xử lý bằng cách phun lên lá ở nồng độ 2.000 ppm có thể làm rụng lá và chết cây nhưng hiệu quả không cao (Manochai và ctv., 2005). Tuy nhiêu nếu xử lý KClO3 cao 250-300 g/cây tỉ lệ ra hoa rất cao, đạt tỉ lệ 100 % nhưng có những ghi nhận cho thấy trọng lượng trái nhãn bị giảm (<10 g/trái) có lẻ do số lượng rễ bị thiệt hại khi xử lý hóa chất nhiều, sự hồi phục rễ non không kịp thời đã làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển của trái nhãn. Hiện nay, để giảm bớt thiệt hại của biện pháp khoanh cành và xử lý chlorate kali ở nồng độ cao, nông dân trồng nhãn ở ĐBSCL đã áp dụng biện pháp xử lý cho nhãn Tiêu Da Bò ra hoa bằng cách tưới chlorate kali ở nồng độ vừa phải (từ 10-20 g/m đường kính tán) và khoanh cành với chiều dài vết khoanh chỉ từ 2-3 mm. Biện pháp nầy tỏ ra có hiệu quả trong việc bảo đảm khả năng sản xuất lâu dài của cây đồng thời đảm bảo được hiệu quả ra hoa vì trong một số trường hợp xử lý chlorate kali không đạt hiệu quả có thể bị ảnh hưởng bởi điều kiện đất đai, mùa vụ, tình trạng sinh trưởng của cây. Điều cần chú ý khi xử lý chorate kali là ở thời điểm lá non hiệu quả của chorate kali thấp. Để xác dịnh điều nầy, Hegele và ctv. (2004) tìm thấy hàm lượng auxin trong lá non cao và có lẽ đã ngăn cản sự di chuyển IAA từ chồi bởi cơ chế tự ức chế.
Morphactin (Morphactin formular-MF)

MF bắt nguồn từ hydroxyfluorene-9-carboxylic acid, là một chất điều hoà sinh trưởng tổng hợp, có tác dụng ngăn cản sự phân chia tế bào ở mô phân sinh ngọn, ức chế sự sinh trưởng của chồi, sự kéo dài của lóng, cản trở địa hướng động và quang hướng động của cây (Schneider, 1970). MF có đặc tính làm chậm sự sinh trưởng giống với các chất CCC, B-nine nhưng không như các chất làm chậm sự sinh trưởng, MF không làm ảnh hưởng đến quá trình sinh tổng hợp GA (Togoni và ctv., 1967) và được biết nó làm rối loạn khả năng quang hướng động và địa hướng động của các cơ quan của cây (Khan, 1967; Sankhla and Sankhla, 1968). Trên cây bơ, Phun Belerex (GA3) ở nồng độ 500ppm và MF ở nồng độ 100 ppm gần ngày nở hoa sẽ làm hoa bị biến dạng và trái không hột. Ngoài ra, MF 100 ppm còn làm đảo lộn mô hình ra hoa của nhóm B, phase cái vào buổi sáng và phase đực vào buổi chiều (Levin, 1981). MF còn có tác dụng ngăn cản sự vận chuyển phân cực của auxin trong gân chính của lá cam quýt nhưng không làm thiếu auxin tự do trong sự hấp thụ ở phần đỉnh của lá nên Goren và ctv. (1986) đã đề nghị sử dụng MF như là chất ngăn cản sự rụng lá bởi nó làm chậm hoạt động của enzyme phân giải vách tế bào, một cơ chế không liên quan đến sự ngăn cản sự vận chuyển của auxin đến vùng rụng của MF Trên cây xoài, MF có tác dụng làm giảm hoạt động sinh trưởng, ra hoa sớm và cải thiện năng suất (Murray, 1998). Nhằm cải thiện khả năng ra hoa của giống xoài Kensington Pride ở vùng Darwin, thuộc miền Bắc nước Úc, Leonardi và ctv. (1999) đã nghiên cứu biện pháp sử dụng hoá chất MF và PBZ so với biện pháp được áp dụng lâu năm ở vùng nầy là khấc thân. Qua theo dõi năng suất của 11 điểm thí nghiệm từ 2 – 4 năm cho thấy có 8/11 điểm năng suất của cây xoài được xử lý bằng phương pháp cột dây có thấm MF (nồng độ 0,0014 g a.i./cây) cao hơn so với đối chứng, trong đó có thí nghiệm so sánh giữa hoá chất MF và PBZ (1,5 – 1,8 g a.i./cây, xử lý bằng cách tưới xung quanh gốc) thì hiệu quả của MF cao hơn hẳn so với PBZ và đối chứng, trong khi PBZ không có khác biệt so với đối chứng. Cũng so sánh hiệu quả của hai loại hoá chất MF và PBZ trên sự ra hoa, năng suất và một số đặc tính sinh lý của xoài Kensington Pride, Gonález và Blaikie (2003) đã xử lý MF bằng cách buộc dây có thấm MF ở nồng độ 0,5% và PBZ xử lý bằng cách tưới vào đất với liều lượng trung bình từ 5 – 7,5 g a.i./cây. Kết quả nghiêu cứu cho thấy rằng cả hai nghiệm thức xử lý MF và PBZ đều có tác dụng cải thiện đặc tính ra hoa của giống xoài Kensington Pride so với đối chứng không xử lý hoá chất cũng như khấc thân. Tuy nhiên, chỉ có nghiệm thức xử lý PBZ là cải thiện được năng suất trái/m2, trong khi năng suất trái của nghiệm thức xử lý MF không khác biệt so với đối chứng. Năng suất kinh tế của cây xoài được xử lý MF thấp được giải thích do giảm tỉ lệ quang hợp của lá gây ra sau khi xử lý MF, giảm diện tích lá do lá rụng và cây mang nhiều trái nhưng trái nhỏ nên năng suất kinh tế thấp hơn so với cây xoài được xử lý PBZ. Như vậy qua thí nghiệm nầy phù hợp với nhận xét của Leonardi và ctv. (1999) cho rằng PBZ ở liều lượng 1,5 – 1,8 g a.i./cây là quá thấp để có hiệu quả và nồng độ của MF ở mức 0,5 – 0,6% là hơi cao và có thể làm ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây xoài như làm giảm khả năng đồng hoá khí CO2, sự vận chuyển nước, giảm diện tích do lá bị rụng như kết luận của Gonález và Blaikie (2003). Qua thí nghiệm nầy, González và Blaikie (2003) cũng cho biết không có bằng chứng cho thấy MF có hiệu quả trong năm thứ hai. Hai ông cũng nhận thấy rằng cây xoài được xử lý MF bị giảm nghiêm trọng khả năng đồng hóa khí CO2, khả năng truyền dẫn của khí khổng và sự vận chuyển nước cho tới 4 tháng sau khi xử lý MF. Cây xoài sau khi quét dung dịch MF lên thân cây cũng bị giảm sự trao đổi khí trên lá (Murray, 1998). Trong khi đó, cây được xử lý PBZ có khả năng đồng hóa khí CO2 cao hơn cây xử lý MF và tương tự với cây đối chứng nhưng trong mùa khô thì sự đồng hoá khí CO2 của cả hai nghiệm thức và đối chứng đều cò tỉ lệ tương tự. Hàm lượng chlorophyll trong lá của cây xử lý MF cũng thấp hơn so với cây xử lý PBZ trong năm xử lý và không khác biệt nhau trong năm tiếp theo và quan trọng hơn cả là năng suất kinh tế của xoài xử lý PBZ cao hơn gấp 2-3 lần so với cây xử lý MF.

Các biện pháp xử lý MF (cột dây có thấm MF và quét MF vào rảnh khấc trên thân đều cho hiệu quả tương tự trên sự ra hoa, năng suất trái và sự sinh trưởng. Với phương pháp quét MF vào rảnh khấc thì nồng độ từ 0,03-0,06g a.i/cây, tuỳ theo đường kính gốc thân, tỏ ra có hiệu quả mặc dù trong một số trường hợp trong thí nghiệm rộng ngoài đồng có biểu hiện lá bị vàng. Điều nầy cho thấy nồng độ MF có thể hơi cao. Biện pháp quét MF vào rãnh khấc rộng (10 mm) có hiệu quả cao hơn rãnh khấc nhỏ (5 mm). Mặc dù không có sự khác biệt giữa hai biện pháp xử lý MF nhưng biện pháp quét vào vết khấc trên thân ít có hiệu quả thực tế vì phải làm lại hằng năm, làm tăng chi phí sản xuất so với biện pháp buộc dây có thấm MF chỉ thấm MF có một lần nhưng hiệu quả kéo dài hơn một năm. Ngoài ra, biện pháp quét vào vết khấc cũng có thể gây ra sự vượt quá nồng độ làm ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây. So sánh giữa phương pháp cột dây và cột dây có thấm MF thì nồng độ từ 0,002-0,01 g a.i./cây có thể quá thấp để có hiệu quả, do đó cần có những thí nghiệm buộc dây thấm MF ở nồng độ cao hơn

Về thời điểm xử lý MF, kết quả cho thấy rằng biện pháp cột dây có thấm MF từ tháng 9-11 ở liều lượng 0,002 g a.i./cây không có hiệu quả trong năm xử lý nhưng trong năm tiếp theo nghiệm thức xử lý vào tháng 9 cho năng suất cao gấp 2,5 lần so với đối chứng, trong khi đó xử lý bằng phương pháp quét vào vết khấc trên thân ở nồng độ 0,06 g a.i./cây từ tháng 11-3 năm sau thì xử lý vào tháng 2-3 năng suất không khác biệt so với đối chứng.

Tóm lại, việc xử lý MF đã làm cho xoài Kensington Pride ra hoa sớm hơn, tập trung hơn, làm tăng năng suất xoài, giúp cho nhà vườn có thể bán giá cao hơn 3 lần trong tháng 9, mặc dù trong một số trường hợp, nồng độ cao MF có thể làm giảm sự sinh trưởng cũng như năng suất kinh tế của cây xoài. Kết quả của những thí nghiệm nầy cho thấy rằng biện pháp buộc dây và buộc dây có thấm MF là biện pháp có tiềm năng phát triển thành biện pháp thực hiện cho nông dân nhằm cải thiện đặc tính ra hoa và năng suất của xoài Kensington Pride (Leonardi và ctv., 1999).

Xử lý xoài ra hoa bằng biện pháp khoanh thân và buộc dây có tẩm morphactin trên xoài Kensington pride ở Darwin
Xử lý xoài ra hoa bằng biện pháp khoanh thân và buộc dây có tẩm morphactin trên xoài Kensington pride ở Darwin