Chat hỗ trợ
Chat ngay

PHÒNG TRỪ BỌ CẮT LÁ HẠI XOÀI VÀO MÙA MƯA

PHÒNG TRỪ BỌ CẮT LÁ HẠI XOÀI VÀO MÙA MƯA


Trong mùa mưa, xoài ra đọt non rất nhiều, đây cũng là nguồn thức ăn cho các đối tượng sâu bệnh hại. Trong đó, bọ cắt lá là côn trùng khá phổ biến. Hiện nay, trên các vườn xoài giai đoạn đọt non đang xuất hiện bọ cắt lá gây hại nặng.

bọ cắt lá hại xoài

Bọ cắt lá có tên khoa học là Deporaus marginatus thuộc Bộ cánh cứng Coleoptera, họ Bọ đầu dài Curculionnidae. Trưởng thành bọ cắt lá là một loài cánh cứng, con cái cơ thể dài khoảng 5mm có màu nâu vàng, nhiều lông, miệng kéo dài như một cái vòi. Râu đầu màu đen. Con đực nhỏ hơn con cái, vòi ngắn hơn, cánh cứng màu nâu, viền cánh màu đen. Cả con đực và con cái ở phần đầu và ngực đều có màu đỏ cam. Trứng hình bầu dục dài 0,5mm, màu trắng sữa đến vàng nhạt, được đẻ rải rác ở mặt dưới lá, dưới lớp biểu bì gần gân lá. Sâu non màu xanh đen, không chân, đẩy sức dài khoảng 5-6mm. Nhộng màu nâu, dài 5mm.

Trưởng thành đẻ trứng rải rác dọc theo gân lá non, trên một lá có từ 10-20 trứng. Sau khi đẻ xong bọ trưởng thành cắn đứt lá ngay phía trên các vị trí đẻ trứng, phần lá bị cắt mang theo trứng rơi xuống đất. Sâu non sau khi nở đục từ gân chính ra mép lá, ăn phần mô lá (lá đã rụng xuống đất) và chừa lại một lớp màng mỏng phía trên lá. Sâu đẩy sức hóa nhộng trong đất.
Trứng nở trong vòng 2-3 ngày, ấu trùng có 3 tuổi sống trong đường hầm trên lá trong vòng 7-8 ngày, nhộng 9-11 ngày. Bọ trưởng thành có thể sống và đẻ trứng kéo dài hàng tháng.
Triệu chứng nhận biết là đọt non xoài bị cắt đứt ngang, vết cắt rất sắc giống như lấy kéo cắt, phần lá cắt rơi xuống đất và để lại phần cuống lá trên cây rất điển hình để nhận biết. Bọ cắt lá trưởng thành gây hại trên đọt non, làm lá bị đứt ngang, cành non có thể bị trụi lá, ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của cây. Bọ cắt lá xuất hiện quanh năm, mật độ cao vào giai đoạn xoài ra đọt non.
* Biện pháp phòng trừ
– Thu gom và tiêu hủy các lá non bị cắn đứt rơi xuống đất để tiêu diệt trứng và ấu trùng nằm trong lá.
– Những vườn bị hại nặng nên cày xới đất ngay tán cây bị hại để diệt nhộng.
– Phun thuốc khi thấy bọ trưởng thành xuất hiện trong vườn. Sử dụng thuốc gốc Cúc tổng hợp như Sherpa 25EC, Decis 2.5EC, Cyperan 10EC,… phun ở giai đoạn lá lụa màu đỏ.
Nguyễn Thị Nguyệt – Chi cục Bảo vệ thực vật

Tư vấn kĩ thuật: 0933.067.033

 

 
 

BIỆN PHÁP PHÒNG VÀ TRỊ SÂU ĐỤC THÂN HẠI CÂY XOÀI

Triệu chứng:

Rất khó phát hiện triệu chứng gây hại của sâu đục thân, cành xoài do trong quá trình gây hại bên trong thân cây, ấu trùng không thải phân ra ngoài, thường chỉ phát hiện thấy qua các lỗ đục trên thân cành làm thân cành héo khô và có thể chết. Trong quá trình gây hại, ấu trùng đục những đường hầm bên trong thân và cành cây.

Đặc điểm hình thái:

Trứng: tròn, màu trắng được đẻ rải rác trong các vết nứt của vỏ cây. Trứng nở trong thời gian từ 2-3 ngày.

Ấu trùng: có cơ thể dài, màu trắng sữa. Cơ thể phát triển, đầu rất nhỏ, không chân, có đời sống rất lâu, có thể đến 7-8 tháng ngay bên trong thân cây, do đó khả năng phá hại rất cao. Mới nở ấu trùng rất mềm yếu nhưng khoảng một tuần sau đó ấu trùng trở nên cứng cáp và rất linh động.

Sau khi nở, ấu trùng sẽ đào hầm chui xuyên qua lớp vỏ cây vào phần mô mềm dưới vỏ cây để ăn phá và phát triển. Trong quá trình ăn phá ấu trùng đục những đường hầm trong thân cây và cành cây. Ðộ lớn của đường đục lớn dần theo tuổi của ấu trùng. Trong một cây có thể có nhiều con gây hại cùng một lúc, nếu mật số cao, cành và ngay cả cây cũng có thể bị chết.

Nhộng: Trước khi làm nhộng, ấu trùng đục một lỗ để khi vũ hóa chui ra. Nhộng được bao bọc bởi một cái kén trắng to. Thời gian làm nhộng có thể từ 1 đến 3 tháng.

Thành trùng có râu cứng, rất dài (dài hơn chiều dài cơ thể), kích thước cơ thể thành trùng dài khoảng 2,5cm. Cơ thể phủ lông mầu xám rất nhỏ, màu đỏ nâu, chân cũng có màu đỏ tuy nhiên phần đầu của đốt đùi và phần cuối của đốt chày lại có màu đen.

Thành trùng thường bị thu hút bởi ánh sáng đèn vào đầu mùa mưa sau khi vừa trưởng thành. Thành trùng cái đẻ trứng trong các chảng ba của cây hay trong các vết thương có sẵn trên cây.

Biện pháp phòng trị:

Không nên chặt, băm hay lột vỏ cây để kích thích cây ra trái vì sẽ tạo nơi thuận tiện cho thành trùng cái đến đẻ trứng.

Thường xuyên thăm vườn cây và nếu phát hiện thấy cây bị hại nhẹ có thể dùng cây xoi lỗ sau đó nhét thuốc trừ sâu dạng hột vào bên trong thân cây và trét đất lại.

Đối với cây xoài bị sâu đục cành hại nặng, quan sát dùng dao chọc theo các lằn đen mở các lớp vỏ cây bên trong bị sâu ăn (vỏ cây mềm, xù xì bên ngoài, có những vết đen nổi u lên) và lần lên trên thân tìm vết đục thành lỗ sâu trong thân cây. Dùng thuốc hạt Basudin 10H, Regent 800WG; Furadan 3H… gói vào trong 1 lớp vải mỏng rồi nhét vào lỗ sâu đục, xong dùng đất trét kín miệng lỗ lại.

Sử dụng các loại thuốc bảo vệ thưc vật có tính năng lưu dẫn, xông hơi, thấm sâu như: Polytrin-P 440EC; Cyperan 25EC; Classico 480EC, Regent 5SC; Pyrinex 20ECVITASHIELD 40EC … phun lên bề mặt lớp vỏ thân cây nhằm diệt ấu trùng (trứng nở ấu trùng) và phun định kỳ 10-15 ngày một lần trong 1 đợt phòng trị.

Nếu cây có nhiều cành bị hại thì nên chặt bỏ những cành hư rồi gom lại và đốt. Ngoài ra, có thể dùng bẫy đèn để bắt bớt thành trùng .

Tư vấn kĩ thuật: 0933.067.033

 Xin mời quý bà con tham khảo thêm kinh nghiệm qua video:

KỸ THUẬT TRỒNG XOÀI Ở VÙNG ĐỒNG THÁP MƯỜI

KỸ THUẬT TRỒNG XOÀI Ở VÙNG ĐỒNG THÁP MƯỜI


I-Giới thiệu khái quát về vùng Đồng Tháp Mười

Đồng Tháp Mười (ĐTM) là một vùng đất ngập nước của Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích 697.000 ha, trải rộng trên ba tỉnh Long An, Tiền Giang  Đồng Tháp trong đó Long An chiếm non phân nửa.

ĐTM là một đồng lụt kín được bao quanh bởi các giồng đất cao ven biên giới Việt Nam-Campuchia, đê tự nhiên dọc sông Tiền và giồng biển cổ dọc theo  quốc lộ 1A (Tân Hiệp – Nhị Quý, Cai Lậy) và chặn lại bởi sông Vàm Cỏ Đông (Long An).

ĐTM là một cánh đồng rộng lớn, hằng năm bị ngập lụt lối bốn, năm tháng khi nước sông Cửu Long dâng cao. Biển Hồ Tonlé Sap ở Campuchia và ĐTM ở Việt Nam là hai nơi lưu trữ nước thiên nhiên, nên đến mùa nước nổi, sông Cửu Long từ từ dâng cao, sau đó nước sẽ lần lần rút ra biển.

ĐTM được thành tạo trong phân đại đệ Tứ (Qiv), trên hai đơn vị trầm tích Pleistocen  Holocen cùng với giai đoạn trung gian của Hậu Pleistocen. Quá trình thành tạo hoàn tất của ĐTM được bắt đầu sau thời kỳ Hậu Pleistocen cách đây khoảng 8.000 năm. Nền trầm tích Pleistocen với các vật liệu phù sa cổ không đồng đều được phủ lên bằng vật liệu mới của trầm tích Holocen. Do đó, có thể tìm thấy những gò phù sa cổ và những giồng cát cổ nằm chen lẫn giữa cánh đồng phù sa mới.

Dưới tác động của nhiều yếu tố tự nhiên và con người, thông qua sự phong hóa với các tiến trình sinh – hóa xảy ra đã hình thành nhiều nhóm đất khác nhau trong ĐTM. Đất phù sa cổ, đất giồng cổ, đất phèn, đất phù sa và phù sa ven sông.

Sự tương tác giữa các yếu tố tự nhiên: địa mạo, trầm tich, đất, nước và các yếu tố khác đã hình thành những cảnh quan tự nhiên với các hệ sinh thái đặc trưng của vùng ĐTM.

ĐTM được cư dân người Việt định cư và khai thác đồng thời với quá trình khai thác Đồng bằng Sông Cữu Long. Như do nơi đây là vùng ngập lũ hàng năm, đất chua phèn nên việc khai thác để trồng lúa chỉ mới bắt đầu từ đầu thế kỷ 20 với kỹ thuật trồng các giống lúa chịu ngập và lúa nổi.

Đặc điểm quan trọng nhất của vùng ĐTM là hàng năm có mùa nước lũ, thời gian ngập lũ từ 2-4 tháng tùy theo địa hình, mực nước lũ ngập sâu từ 0,5 đến 4-5 mét tùy theo độ cao của đất và tùy theo mực nước lũ.

II-Kỹ thuật trồng xoài ở vùng Đồng Tháp Mười

2-1-Chọn đất trồng xoài

Xoài là cây ăn quả lâu năm, có giá trị kinh tế cao nên được người nông dân vùng ĐTM chọn làm cây trồng ăn quả chính quanh nhà.

Cây xoài là loài cây trồng cạn, chịu úng khá nhưng khi bị ngập lâu trong lũ cây xoài sẽ bị chết, do đó cây xoài trồng ở vùng ĐTM chủ yếu trên các sân, vườn, bờ kinh không bị ngập trong mùa nước lũ.

Ngoài sân, vườn cây xoài còn trồng được trên vùng đất xám được bao đê chống lũ tuyệt đối ở các vùng đất xám có độ cao ở các vùng biên giới thuộc tỉnh Đồng Tháp và Long An, tuy nhiên trên loại đất này năng suất cây xoài không cao so với cát vùng đất phù sa bải bồi không bị ngập nước ở nhiều nơi khác thuộc ĐBSCL.

Cây xoài thích nghi tốt trên nhiều loại đất, tuy nhiên để trồng xoài tốt ở vùng ĐTM nên chọn đất gò cao quanh nhà vườn, có độ tơi xốp và thoát nước tốt trong mùa mưa lũ.

Xoài thích hợp đất có pH từ 5,5-7, đất có pH nhỏ hơn 5 cây sẽ kém phát triển. Ở những vùng đất thấp trước khi trồng cần phải lên líp cao sao cho mực nước tại thời điểm cao nhất cách gốc ít nhất 1m.

2-2-Thời vụ trồng xoài

Xoài được trồng quanh năm nhưng tốt nhất là vào đầu mùa mưa. Tuy nhiên, nếu trồng với lượng ít ta có thể trồng vào nhiều thời vụ khác nhau, miễn là phải tránh thời điểm nắng nóng và rét đậm và sau khi trồng phải cung cấp đủ nước tưới cho cây.

2-3-Giống xoài

Xoài có tên khoa học là Mangifera Indica L, thuộc họ Anacardiacae. Xoài có rất nhiều giống, nhưng có 2 nhóm giống cơ bản là nhóm Ấn Độ (hạt đơn phôi) và nhóm Đông Nam Á (hạt đa phôi). Nhóm đơn phôi thường cho trái quanh năm.

Hiện nay có nhiều giống xoài cao sản, năng suất cao, phẩm chất ngon được trồng phổ biến ở ĐBSCL, bao gồm:

+Các giống xoài nội địa:

Giống Xoài cát Hòa Lộc: Nguồn gốc của xoài cát Hòa Lộc được trồng tại xã Hòa Lộc, quận Giáo Đức, tỉnh Định Tường nay là ấp Hòa, xã Hòa Hưng, huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang, nên được mang tên là xoài cát Hòa Lộc. Đây là vùng đất phù sa ven sông nên giàu chất dinh dưỡng, rất thích hợp cho xoài cát Hòa Lộc sinh trưởng và phát triển. Xoài cát Hòa Lộc có trọng lượng trung bình 600-700g/trái.

Xoài cát Hòa Lộc

Giống Xoài cát chu: Trái dạng hơi tròn, trọng lượng trung bình 300-350gr/trái, phẩm chất khá ngon, vị hơi chua (độ Brix 15-16%), thịt quả không dẻ, chặt nhưng ít xơ và vỏ trái dày hơn xoài cát Hòa Lộc. Ưu điểm là dễ đậu trái và cho năng suất cao.

Xoài cát chu Đồng Tháp

Giống xoài Tứ quý: Là giống xoài địa phương có năng suất cao và phẩm chất ngon (trung bình 900g/trái).

Xoài từ quý

Các giống xoài địa phương khác: Ngoài ra còn nhiều giống xoài địa phương khác có phẩm chất ngon nhưng năng suất không cao như: Xoài bưởi, Xoài hòn, Xoài thanh ca, Xoài xiêm, Xoài châu hạng võ, Xoài thơm, Xoài tượng…

Xoài tượng Việt Nam

+Các giống xoài ngoại nhập:

Là những giống xoài dùng để “ăn xanh” có hương vị ngon như:

Xoài Kiew-Savoey (Khiêu xa vơi) của Thái Lan, trái nhỏ (nặng trung bình từ 250-550g), ăn ngon nhưng không bằng các giống xoài Việt Nam.

Xoài Falun, Nam-Dok-Mai (Thái Lan) thường được dùng để ăn sống khi vỏ trái còn xanh.

Xoài xanh Thái Lan

Xoài vàng Thái Lan

 

Xoài tượng Đài Loan

Xoài Tượng Đài Loan rất được ưa chuộng vì trái lớn, dễ ra hoa, đậu trái và cho năng suất cao.

+Nhân giống: 

Trồng bằng hạt: Cây có thể trồng bằng hạt nhưng chậm cho trái (6 hoặc 8 năm hay đôi khi đến 10 năm, ngoại trừ giống xoài bưởi cho trái ở 3 tuổi). Lột lớp vỏ cứng đem gieo ngay trên liếp ươm cách nhau 10 cm, tách ra để lấy nhiều cây (nếu tách trễ cây phát triển yếu ớt. Cây có 4 lá xanh bứng sang khu giâm khoảng cách (30cm x 60cm) để trồng làm gốc ghép hoặc vô bầu dưỡng 1-2 tháng rồi trồng. Tuy nhiên, nên trồng xoài cây ghép để đảm bảo thuần giống và mau cho trái.

–  Trồng bằng cây tháp: Tháp mắt và tháp cành được sử dụng rộng rãi, thu hoạch quả sau 3 năm. Mầm tháp chọn từ cây mẹ tốt, năng suất cao. Chọn nhánh tốt, cắt bỏ lá, mang mắt 1 tuần trước khi lấy mầm để có mầm mạnh. Cành tháp có thể mang đi xa nhưng phải bảo quản tốt, giữ đủ ẩm. Cành được tháp phải là cành mọc mạnh, gỗ còn xanh, để vỏ tróc tốt khi tách. Cây đã tháp dưỡng 4 tháng trước khi đem trồng.

Trồng bằng cây chiết cành: Cây chiết cành giữ được đặc tính của cây giống ban đầu và có thể trồng hàng loạt những cây có nguồn gốc giống nhau nên có thể thu hoạch hàng loạt với chất lượng quả giống nhau, thích hợp cho những vườn sản xuất tập trung.

Hiện nay các nhà vườn ươm cây chuyên nghiệp đã sản xuất hàng loạt cây xoài ghép và chiết cành và được các thương lái dùng ghe mang đi bán khắp nơi ở vùng ĐTM.

Cây xoài giống được bán phổ biến

2-4-Kỹ thuật trồng: 

Xoài là cây đại thụ, sống rất lâu từ 30-50 năm, do đó có thể trồng thưa (cách khoảng 8m x 8m, hoặc 10m x 10m), có thể trồng dày hơn (5m x 6m) rồi sau đó tỉa thưa dần. Trước khi trồng từ 1-3 tháng,  đào hố vuông, rộng 70-80cm, sâu 50-70cm. Bón phân lót cho 1 hố: 20-30kg phân chuồng mục + 1-2kg super lân + 0,1kg kali + 0,3-0,5kg vôi bột. Trộn đều phân với đất, lấp bằng miệng hố (công việc này làm xong trước khi trồng khoảng 1 tháng).

Cách trồng cây chiết, ghép: đào một hốc nhỏ ở chính giữa hố, rạch bỏ túi bầu nilon và đặt bầu cây vào giữa hố, lấp đất vừa bằng cổ rễ, nén chặt xung quanh. Sau đó cắm 3 cọc ở 3 góc hố và buộc dây vào cây để tránh lay gốc làm chết cây. Sau khi trồng tủ xung quanh gốc bằng rơm, rác mục và tưới nước giữ ẩm cho cây liên tục trong một tháng đầu để tạo độ ẩm cần thiết cho rễ phát triển. Sau trồng 1 tháng cây ổn định, rạch nilon ở vết ghép để cây sinh trưởng, phát triển. Khi cây phát triển được 3 cơi lá thì nên bấm bỏ đọt. Khi cây ra chồi thứ cấp, chọn 3 chồi phát triển mạnh nằm theo hình tam giác đều, bấm đọt như trên, để cho đến khi chồi non của 3 chồi này mọc ra đủ 3 cơi lá nữa thì bấm ngọn tiếp. Cứ thế bấm đọt đến lần thứ 3 thì thôi, để cho cây phát triển tự nhiên. Ở giai đoạn cây trưởng thành, nên cắt tỉa những cành mọc bên trong tán, cành quá gần mặt đất, cành sâu bệnh, cành không hiệu quả và cuống hoa, nhánh vụn của mùa trước.

Cách trồng cây gieo từ hạt: Cây có thể trồng bằng hạt nhưng chậm cho trái (6 hoặc 8 năm hay đôi khi đến 10 năm) nhưng tuổi thọ cây sống lâu và năng suất cao kể từ năm thứ 6-7 trở đi (cây có thể sống 40-50 năm).

Lột lớp vỏ cứng đem gieo ngay trên liếp ươm cách nhau 10 cm, cây có 4 lá xanh bứng sang khu giâm khoảng cách (30cm x 60cm) hoặc vô bầu dưỡng 2-3 tháng rồi trồng.

Cách đào hố và kỹ thuật trồng như cây ghép hoặc chiết.

2-5- Kỹ thuật chăm sóc

Thời kỳ cây còn nhỏ, tức mới trồng được 1-3 năm tuổi. Thời kỳ này cây sinh trưởng mạnh hầu như quanh năm để hoàn thiện bộ khung tán. Chính vì vậy, việc cung cấp đủ phân, đủ nước, diệt trừ cỏ dại thường xuyên để tạo điều kiện thuận lợi cho cây sinh trưởng là rất cần thiết.

– Tưới nước: Trong thời kỳ cây còn nhỏ việc tưới nước có thể tiến hành quanh năm nhằm cung cấp đủ nước cho các đợt lộc non hình thành và phát triển. Đặc biệt trong thời gian đầu sau khi trồng mới, việc tưới nước cần phải duy trì từ 3-4 ngày/lần. Càng về sau số lần tưới càng ít đi nhưng phải duy trì được độ ẩm thường xuyên cho diện tích đất xung quanh gốc. Để hạn chế bớt cỏ dại và ngăn cản quá trình bốc hơi nước ta nên dùng rơm rác mục, cỏ khô tủ lại xung quanh gốc, tủ phần tán cây có bán kính 0,8-1m, và để trống phần diện tích cách gốc 20cm để hạn chế côn trùng, sâu bọ làm tổ, phá hoại gốc cây.

– Làm cỏ: Thời kỳ đầu do bộ tán cây còn nhỏ nên các loại cỏ dại có điều kiện sinh trưởng, phát triển. Vì vậy, làm cỏ cần phải tiến hành thường xuyên và là công việc tốn khá nhiều công sức. Tuy nhiên, tùy theo đặc điểm của từng vùng ta có cách thức xử lý cỏ phù hợp khác nhau. Nếu vườn chỉ có các loại cỏ lá rộng thân thẳng phát triển, việc diệt trừ cỏ sẽ đơn giản và đỡ tốn công hơn nhiều. Cách  diệt cỏ loại này đơn giản nhất là dùng dao phát cán dài, phía mũi dao cong lại như mũi liềm. Khi cỏ cao khoảng 20cm thì dùng dao phát ngang sát mặt đất để cắt đứt thân cây cỏ. Phần thân bị cắt đứt được thu gom lại, phơi khô sau đó tủ lại xung quanh gốc cây.

– Xử lý ra hoa sớm: là việc làm nhằm mục đích tránh tình trạng vào vụ thu hoạch rộ thì bị rớt giá. Tất nhiên, nhà vườn phải cân nhắc kỹ và có đủ điều kiện, trình độ kỹ thuật thì mới có thể thực hiện thao tác xử lý ra hoa sớm. Đối với cây xoài già thì có thể tưới thuốc vào thời điểm cây ra được 1-2 cơi đọt, đối với cây tơ thì tưới vào lúc cây ra được 2-3 cơi đọt. Tưới khi cây vừa ra đọt cuối khoảng 10cm hoặc ra lá lụa. Có thể dùng một số loại thuốc ức chế tăng trưởng để tưới như Paclobutrazol 10%, liều lượng 10cc pha với 5-10 lít nước tưới cho 1m đường kính tán và tưới sát gốc, sau đó giữ ẩm 20 ngày. 2 tháng sau dùng KNO hoặc Dola 02X.

– Bảo vệ hoa và trái non: Việc bảo vệ hoa và trái non là rất quan trọng. Có thể phun thuốc (Pyrinex, Sago Super, Butyl) bảo vệ hoa lần 1 khi phát hoa dài 2-3cm để ngừa rầy chích hút. Lần hai phun khi hoa đạt kích thước tối đa. Sau đó, ngưng phun thuốc để bảo vệ côn trùng có ích giúp hoa thụ phấn. Trong giai đoạn này, nếu mưa nhiều, nhất là mưa đêm, thì sáng hôm sau rung cành cho rụng bớt hoa không thụ phấn, kết hợp phun thuốc phòng trừ nấm gây bệnh thán thư (dùng thuốc Bendazol, Carbenzim, liều lượng theo hướng dẫn). Cứ hễ mưa xong là phun thuốc. Khi trái non đạt kích thước đường kính 1-2mm (còn gọi là đậu trứng cá), phun thuốc ngừa bệnh tán thư. Dùng các loại thuốc như Antracol, Viben-C, và phun Pyrinex, Fastac để ngừa sâu rầy. Sau khi xoài đậu trái thường phải qua thời kỳ rụng sinh lý, kéo dài khoảng 35-45 ngày. Qua thời kỳ này thì xoài không rụng nữa. Giai đoạn này, bao trái là hiệu quả nhất nhằm hạn chế việc sử dụng thuốc trừ sâu mà vẫn bảo vệ được trái xoài khỏi sâu bệnh hại, vừa giúp cho vỏ xoài trắng đẹp. Trong tự nhiên, xoài thường ra hoa lẻ tẻ không đồng loạt. Để cho xoài ra hoa tập trung phải xử lý bằng ka-li-nitơ-rát (KNO3) nồng độ 1,25-1,5% (1lít nước và 12-15g KNO3) phun ướt hết các lá xoài. Sau khi phun 3-7 ngày xoài sẽ ra hoa.

2-6-Bón phân cho xoài:  

– Giai đoạn cây tơ: Hàng năm nên bón mỗi gốc từ 200-400g phân NPK 16-16-8 và khoảng 200g phân urê, lượng phân này được chia ra làm 2 lần bón vào đầu và cuối mùa mưa. Về cách bón, có thể bón theo lỗ hoặc rải đều xung quanh gốc theo phạm vi của tán và cách gốc từ 0,3-0,5m. Ngoài ra, nên bón bổ sung từ 1-3 kg phân KOMIX chuyên dùng cho cây ăn trái để bổ sung chất hữu cơ cho đất giúp cây xoài phát triển ổn định.

– Giai đoạn cây trưởng thành: Bón tối thiểu từ 2-5kg/cây loại phân NPK 16-16-8 và từ 3-4 kg phân KOMIX, chia đều 2 lần bón vào đầu mùa mưa (lúc cây mang trái) và vào tháng 9-10 dương lịch (trước khi cây ra hoa). Lượng phân bón có thể tăng sau những năm trúng mùa để cây phục hồi sức cho trái năm sau.

2-7-Phòng trừ sâu bệnh trên xoài:

a-Côn trùng hại xoài

1 Sâu đục cành non (Alcicodes sp.):

Là loài gây hại rất phổ biến, con trưởng thành dạng bọ vòi voi màu đen, đầu dài, râu hình dùi đục.

-Thành trùng dùng vòi đục nhiều lổ liên tiếp, thẳng hàng trên cành non, gần các lá non và đẻ trứng, sâu non màu trắng đục, đầu vàng nâu.

-Sâu non đục bên trong cành và hướng vào thân cây, làm đọt bị chết khô, sâu làm nhộng ngay trong cành bị đục. Sâu gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự sinh trưởng, ra hoa và  năng suất của cây.

* Phòng trị:

– Điều khiển cây ra đọt non đồng loạt để kiểm soát.

– Cắt và đem tiêu hủy cành bị chết để loại trừ nhộng.

Dùng bẫy đèn bắt bướm, tiêm vào lỗ những loại thuốc có tính xông hơi mạnh hoặc nội hấp như: Actara 25 WG, Padan 95SP, bịt lỗ bằng đất sét để diệt sâu non.

2. Sâu đục trái (Noorda albizonalis):

Bướm đẻ trứng trên trái xoài non (30-45 ngày sau khi đậu trái – NSĐT) ở phần đít trái, sâu có khoang trắng đỏ trên lưng, sâu non đục một lổ nhỏ và chui vào trong ăn phần thịt trái, sâu lớn tấn công vào ăn hạt xoài, vết đục tạo điều kiện cho nấm, vi khuẩn xâm nhập làm thối trái, trái non rụng nhiều, cắt trái xoài có sâu nằm bên trong.

* Phòng trị:

– Phải sử dụng bao trái.

– Thu gom những trái bị hại đem tiêu hủy.

3. Bọ trĩ (Bù lạch) (Scirtothrips dorsalis Hood):

Thành trùng có kích thước rất nhỏ 0,1-0,2 mm, khó nhìn thấy bằng mắt thường. Cả con trưởng thành và ấu trùng đều tập trung ở bộ phận non của cây như đọt non, lá non, hoa và trái để chích hút nhựa. Trên lá non làm lá thâm đen và cong queo, mép lá cụp xuống, trên trái tạo thành vùng da cám xung quanh cuống trái và tạo vết thương giúp vi khuẩn xâm nhập gây bệnh xì mủ trái, gây hại nặng có thể làm cho cả hoa xoài cháy khô. Bù lạch phát triển mạnh khi thời tiết nắng nóng và sinh sản rất nhanh nên rất mau kháng thuốc.

– Dùng vòi nước áp lực cao phun phía dưới mặt lá.

– Dùng dầu khoáng DS 98.8 EC + Actara 25 WG phun lúc cây ra đọt và lá non giúp ngừa được cả rầy bông xoài và sâu đục đọt xoài, không phun dầu khoáng giai đọan hoa đang nở. Phun đồng loạt trên khu vực rộng sẽ có hiệu quả cao hơn.

– Phun thuốc hóa học: Nên dùng các loại thuốc có nguồn gốc sinh học và tuân thủ nguyên tắc 4 đúng.

*Lưu ý: cần phải thường xuyên luân phiên các nhóm thuốc với nhau để ngăn chặn hiện tượng kháng thuốc.

3. Bọ cắt lá (Deporaus marginatus):

Thường gây hại nặng trong vườn ươm cây con hoặc ở vườn xoài mới ra đọt non vào mùa khô. Thành trùng là bọ cánh cứng màu nâu vàng, đầu và ngực màu đỏ cam, miệng là cái vòi dài. Thành trùng thường đẻ trứng trên bìa lá non vào ban đêm, sau đó bọ cắn lá như cắt ngang chừa 1/3 lá trên cây, trứng sẽ theo 2/3 lá cắt rơi xuống đất, sau 2 ngày ấu trùng sẽ nở ra, ăn phần lá rơi và hóa nhộng dưới mặt đất. Bọ cắt lá gây ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và ra hoa rất lớn, do làm giảm diện tích lá trên chồi.

* Phòng trị:

– Điều khiển cây ra đọt non đồng loạt.

– Thu dọn các lá bị hại trong vườn đem tiêu hủy.

4. Rầy bông xoài (Idioscopus spp.):

Gây hại trên các bộ phận non như bông, đọt, lá và trái non, rầy chích hút làm lá không phát triển, lá bị cong, rìa lá khô, phát bông bị khô, trái không phát triển và rụng đi.

Rầy còn thải ra mật đường làm cho nấm bồ hóng phát triển mạnh gây đen bông và trái. Khi vào vườn xoài có rầy hiện diện sẽ nghe những tiếng động nhỏ do rầy di chuyển nên rất dễ phát hiện.

* Phòng trị:

– Tỉa cành tạo điều kiện thông thoáng để hạn chế sự phát triển của rầy.

– Một số loài thiên địch rầy bông xoài như: bọ xít ăn thịt (Revudiidae), ong ký sinh và nấm Verticellium lecanii, Hirsutella sp.

-Dùng Bassa 50 EC, Trebon 2,5 EC, Supracide 40 EC, Song mã 24,5 EC,…

5- Rầy xanh hại lá xoài: Rầy tiết dịch gây bệnh mùa nóng, làm xoài kém phát triển. Thời gian hại mạnh từ tháng 10 năm trước đến tháng 6 năm sau.

* Phòng trị:

– Tỉa cành tạo điều kiện thông thoáng để hạn chế sự phát triển của rầy.

– Một số loài thiên địch rầy bông xoài như: bọ xít ăn thịt (Revudiidae), ong ký sinh và nấm Verticellium lecanii, Hirsutella sp.

-Dùng Bassa 50 EC, Trebon 2,5 EC, Supracide 40 EC, Song mã 24,5 EC,…

6. Rệp sáp (Pseudoccoccus sp):

Có nhiều loài rệp sáp gây hại trên xoài nhưng quan trọng là loài gây hại trên trái vì chúng gây ảnh hưởng đến chất lượng, năng suất và giá trị của trái.       

Rệp sáp ở mặt dưới lá, chích hút nhựa lá non, cuống trái, chất thải của rệp tạo điều kiện nấm bồ hống phát triển làm cho trái chậm lớn.

* Phòng trị:

– Bảo tồn thiên địch như: ong ký sinh và bọ rùa … để hạn chế rệp sáp.

– Phun thuốc hóa học như : dầu khoáng DS 98.8 EC, Admire 050 EC, Supracide 40 EC.

7. Ruồi đục quả (Bactrocera dorsalis):

– Ruồi trưởng thành màu vàng, cánh trong, hoạt động vào ban ngày, đẻ trứng lên quả phần tiếp giáp giữa vỏ và thịt quả, trứng hình quả chuối màu trắng ngà sau chuyển sang màu vàng nhạt. Giòi nở ra đục vào trong ăn thịt trái, vỏ trái nơi ruồi đục vào có màu đen, mềm, ứ nhựa, tạo điều kiện cho nấm bệnh tấn công làm thối trái và có thể bị rụng hoặc vẫn đeo trên cây. Ruồi làm nhộng trong đất quanh gốc cây, sau đó vũ hóa, chui lên mặt đất.

– Ruồi đục quả là đối tượng kiểm dịch khi xuất nhập khẩu trái cây. Ruồi tấn công lên nhiều loại cây trồng, trái xoài bị ruồi đục làm giảm giá trị thương phẩm, chất lượng và không xuất khẩu được. 

* Phòng trị:

– Phải sử dụng bao trái.

– Không trồng xen các loại cây ăn trái khác trong vườn xoài.

– Thu, hái và đem tiêu hủy toàn bộ trái rụng trên mặt đất và trái còn đeo trên cây vì là nơi ruồi lưu tồn.

– Phun mồi protein thủy phân: Do ruồi cái thích ăn protein để phát triển trứng, ruồi đực phát triển tinh trùng, nên có thể dùng bả mồi protein để diệt ruồi. Pha 4cc Malate 73 EC với 55cc mồi protein trong 1 lít nước. Phun 200cc hổn hợp này cho 1 cây, phun theo từng điểm, để dẫn dụ và diệt ruồi. Đây là phương pháp hiệu quả và phù hợp với sản xuất trái cây theo hướng an toàn và khuyến cáo áp dụng đồng loạt cả khu vực.

-Dùng thuốc Feremone sinh học bẩy ruồi đực.

-Dùng Sherpa 25 EC, Lục Sơn 0,26 DD, Padan 95 SP khi có mật độ cao.

b-Nhện đỏ hại xoài

1-Nhện đỏ (Oligonichus sp.):

Sống tập trung ở mặt dưới những lá đã chuyển sang màu xanh, chích hút dịch lá, trái làm cho lá có màu đồng hoặc xám bạc và làm vỏ trái sần sùi gây hiện tượng da cám. Dọc gân chính của lá có nhiều vết lấm tấm nhỏ, đó là lớp da củ của nhện sau lột xác còn để lại. Nhện đỏ phát triển mạnh khi thời tiết nắng nóng, quan sát kỹ mặt dưới lá sẽ thấy chúng di chuyển.

* Phòng trị:

– Dùng vòi nước áp lực cao phun phía dưới mặt lá.

– Bảo tồn thiên địch để hạn chế được sự bộc phát của nhện.

– Khi mật số nhện cao, có thể sử dụng thuốc hóa học để phòng trị.

– Phun thuốc đặc trị nhện đỏ như Nisorun, Komite, Dandy…

c- Bệnh hại xoài

1. Bệnh thán thư:

Do nấm Colletotrichum gloeosporioides gây ra.

Bệnh làm thối đen hoa, rụng hoa, thối đen trên quả.

Bệnh gây hại nặng vào mùa mưa, những ngày có sương mù hoặc có mưa nhỏ kéo dài nhất là mưa đêm. Bệnh gây hại trên lá, cành non, phát hoa và tất cả các giai đoạn phát triển của trái. Trên lá non, vết bệnh ban đầu như mũi kim màu xanh đậm, sau chuyển nâu, to dần, ở giữa bị khô và rách, có thể làm lá bị biến dạng. Hoa, trái non bị đen sau đó khô và rụng. Trái lớn có những vết đen lõm tạo thành những vòng đồng tâm.

* Phòng trị:

– Tạo thông thoáng cho vườn (mật độ cây trồng hợp lý, tỉa cành tạo tán).

– Cắt tỉa và tiêu hủy các lá, cành, trái bị bệnh.

– Không nên tưới nước lên tán cây khi cây bị bệnh.

– Dùng Benlat C hoặc Score 250 EC phun từ khi hoa nở đến 2 tháng sau với 7 ngày phun 1 lần, sau đó 1 tháng phun 1 lần.

2. Bệnh thối trái, khô đọt: Do nấm Dipldia Natalensis phá hại trên cành, lá, trái. Cành non xuất hiện đốm sậm màu lan dần nên lá. Lá cũng bị biến sang màu nâu, bìa lá cuốn lên trên. Có thể thấy mủ chảy trên các cành bị bệnh. Chẻ dọc cành bị bệnh có thể thấy bên trong có các sọc nâu do các mạch dẫn nhựa bị hư. Bệnh phát triển mạnh lúc độ ẩm không khí cao, lan nhanh trong mùa mưa. Trên trái, bệnh tấn công vào giai đoạn thu hoạch và tồn trữ, làm thịt trái bị chai sượng, bên trong thịt trái ta thấy những sọc đen chạy dọc theo trái. Vùng vỏ quanh cuống trái bị úng sậm màu, sau đó lan rộng thành vùng đen tròn, sau 2-3 ngày có thể gây thối trái.

* Phòng trị:

– Khi thu hoạch nên chừa cuống trái khoảng 5cm, không làm xay xát trái trong khi thu hoạch cũng như lúc vận chuyển.

– Không thu hoạch trái lúc sáng sớm hoặc sau mưa.

-Dùng Boocđô phun định kì lúc phát hiện bệnh. Ở trái có thể nhúng vào dung dịch hàn the (borax) pha loãng ở nồng độ 0,06%.

3. Bệnh da ếch: Do nấm Chaetothyrium sp. gây ra.

Bệnh thường gây hại trên xoài Bưởi, xoài cát Hoà lộc, xoài thơm… bệnh gây hại nặng trong điều kiện ẩm độ cao.

Bệnh nhiễm rất sớm khi trái còn non, thường bắt đầu từ cuống trái và lan dần xuống bên dưới. Vết bệnh đầu tiên là những chấm nhỏ màu đen, tròn, sau đó lan dần ra và tạo thành các đốm màu đen rải rác trên vỏ trái xoài. Bệnh thường không làm hư trái mà làm giảm giá trị thương phẩm, bệnh nặng sẽ làm hư vỏ trái.

* Phòng trị:

– Phải sử dụng bao trái.

– Tạo thông thoáng cho vườn (mật độ cây trồng hợp lý, tỉa cành tạo tán).

4. Bệnh phấn trắng: Do nấm Oidium mangiferae gây ra.

Xâm nhiễm và gây hại lá, hoa, quả đặc biệt là hoa và chùm hoa.

Nấm bệnh phát triển tạo thành lớp phấn trắng trên lá non, phát hoa và trái non. Bệnh thường phát triển từ ngọn của phát hoa, lan dần đến cuống hoa, trái non, lá non và cành. Thường hoa bị nhiễm bệnh trước khi thụ phấn và trái bị nhiễm bệnh sẽ bị biến dạng, méo mó, nhạt màu, bị khô và rụng sớm.

Bệnh gây thiệt hại nặng nhất trong giai đoạn trổ hoa đến đậu trái, trong điều kiện nóng ẩm và có sương đêm, bệnh sẽ bộc phát và lây lan nhanh.

* Phòng trị: 

– Cắt tỉa cành, tạo tán cho cây phát triển mạnh, cung cấp phân bón đầy đủ.

– Thăm vườn thường xuyên để sớm phát hiện bệnh trong giai đoạn cây ra bông và đậu trái non.

– Có thể bao trái khi xoài hết giai đoạn rụng sinh lý (từ 35 – 40 ngày tuổi) để phòng ngừa nấm bệnh và tránh ruồi đục quả.

– Dùng thuốc Rhidomila MZ 72WP, Anvil 5SC,…

5. Bệnh nấm hồng: Do nấm Corticium salmonicolor gây ra.

Bệnh gây hại trên thân, cành, nhánh. Đầu tiên trên mặt vỏ thân hay nhánh có tơ nấm trắng, sau đó tạo thành những mảng màu hồng. Đôi khi không thấy mảng màu hồng mà chỉ thấy các gai nấm màu hồng phát triển từ các vết ở vỏ thân hay nhánh.

Khi nấm tấn công làm cho nhánh và thân bị mất dinh dưỡng, bệnh nặng làm nhánh khô và chết. Bệnh thường phát triển trên những cây có tàn lá rậm rạp và che khuất nhau, nhất là vào những tháng mưa nhiều. Nấm có thể gây hại trên nhiều loại cây trồng khác nhau đặc biệt như mít, sầu riêng,…

* Phòng trị:

– Tạo thông thoáng cho vườn (mật độ cây trồng hợp lý, tỉa cành tạo tán).

– Cắt bỏ và tiêu hủy các nhánh nhiễm bệnh.

6. Bệnh xì mủ trái: Vi khuẩn  Xanthomonas campestris pv. Mangiferae.

Bệnh này có thể gây hại cả trái và lá xoài. Trên trái, có nhiều vết nứt ngả màu đen, có mủ rịn ra mang theo vi khuẩn. Trên lá, tạo ra các đốm đen có hình dạng bất định, tâm hơi xám, viền đen hơi gồ lên.

Vi khuẩn lây lan qua đường nước nên trong mùa mưa là điều kiện thuận lợi cho bệnh phát triển. Vi khuẩn xâm nhập vào trái qua các vết thương, vết chích của côn trùng (bù lạch, nhện đỏ, ruồi đục trái…).

* Phòng trị:

– Phải sử dụng bao trái.

– Không nên phun nước lên lá xoài khi cây bị bệnh để tránh lây lan bệnh ra cả vườn.

– Bảo tồn thiên địch để hạn chế nhện đỏ và bù lạch.

7- Bệnh muội đen: Do bài tiết của rệp, gây muội đen trên cành, lá.

* Phòng trị:

Dùng: Bassa 50 EC, Trebon 2,5 EC và có thể phun các loại thuốc trừ nấm có gốc đồng,…

8- Bệnh cháy lá:

Bệnh phát triển trong mùa mưa, gây hại chủ yếu trên lá. Phòng trừ bằng cách cắt bỏ lá bệnh, phun thuốc Rhidomil MZ 72 WP, Kasumin 2L,…

3-Thu hoạch và sau thu hoạch

3-1. Thu hoạch:

Thu hoạch phải đúng độ chín (trái sẽ chìm khi thả vào nước hoặc tỉ trọng bằng 1,02), nhằm đảm bảo chất lượng trái và bảo quản trái sau thu hoạch được lâu hơn.

Khi quả già, vỏ quả hồng sáng, độ chín đặc trưng của giống thì thu hoạch. Nên thu hái vào lúc trời râm mát, khô ráo. Quả thu hái về cần phân loại. Nếu vận chuyển đi xa thì đóng vào sọt hoặc thùng không quá 5 lớp (đóng sọt phải có lót rơm hoặc giấy giữa các lớp quả).

Nên thu hoạch lúc trời mát, không thu hoạch sau mưa hoặc có sương mù nhiều vì trái dễ bị thối khi tồn trữ. Lúc thu hoạch trái nên để cuống dài từ 5-10 cm để tránh không bị chảy nhựa làm tăng giá trị thương phẩm.

 Sau khi thu hoạch vệ sinh xung quanh tán cây, cắt tỉa cành già, cành sâu bệnh và tiếp tục chăm sóc.

Xoài thương phẩm ở tỉnh Đồng Tháp

3-2. Bảo quản:

– Ở nhiệt độ bình thường, chỉ có thể giữ trái được khoảng 5-7 ngày. Để kéo dài thời gian bảo quản nên giữ trái trong điều kiện nhiệt độ là 120C và ẩm độ khoảng 90%. Trong quá trình bảo quản nên thông gió thường xuyên và chú ý tạo đối lưu đồng đều trong kho.  Ngoài ra, nếu bảo quản ở nhiệt độ 10-130C trong bao PE chuyên dùng thì thời gian tồn trữ có thể lên đến 22 ngày.

– Trái không để tiếp xúc trực tiếp với đất, tránh chất thành đống và phải còn nguyên cuống (dài khoảng 5cm), quay ngược đầu lại để cho khô nhựa trước khi bao giấy đưa vào thùng.

PHÒNG TRỪ BỆNH THÁN THƯ HẠI XOÀI

1-Tên gọi và danh pháp khoa học
Tên thường gọi: Nấm bệnh thán thư xoài.
Tên tiếng Anh: Anthracnose fungi.
Tên khoa học: Colletotrichum gloeosporioides Penz.
Tên đồng nghĩa: Glomerella cingulata (Stoneman) Spauld. & H. Schrenk, (1903)
Các loài tương cận: Có trên 50 loài (Xem: Colletotrichum).
Trong đó có loài C. acutatum cũng gây bệnh thán thư trên cây xoài.
2-Phân loại khoa học (Scientific classification)
 

Giới (Kingdom): Nấm (Fungi)
Ngành (Phylum): Nấm đảm (Ascomycota)
Phân ngành (Subphylum): Pezizomycotina
Lớp (Class): Sordariomycetes
Bộ (Order): Glomerellales
Họ (Family): Glomerellaceae
Chi (Genus): Colletotrichum
Loài (Species): Colletotrichum gloeosporioides

 
Chi nấm Colletotrichum là tên được gọi trong giai đoạn sinh sản vô tính (anamorph) và trong giai đoạn sinh sản (teleomorph) được gọi là Chi Glomerella. Đây là một chi lớn với hàng trăm loài nấm trong đó đa số chuyên gây bệnh thán thư trên cây trồng, một số loài có quan hệ cộng sinh với thực vật.
Loài nấm gây bệnh thán thư Colletotrichum gloeosporioides (giai đoạn sinh sản vô tính), trong giai đoạn sinh sản hữu tính được gọi là Glomerella cingulata là loài nấm đa ký chủ gây bệnh thán thư trên nhiều loài cây trồng và là loài gây bệnh thán thư chủ yếu trên cây xoài.

Khuẩn lạc, khuẩn ty và bào tử nấm Collectotrichum

3-Phân bố
Đây là loài nấm gây bệnh cây trồng phổ biến trên khắp thế giới từ vùng nhiệt đới đến vùng ôn đới, nặng nhất ở vùng nhiệt đới.
Ở Việt Nam loài nấm Colletotrichum gloeosporioides gây bệnh thán thư nặng trên cây xoài và cây đu đủ.
Ngoài ra còn loài nấm C. acutatum cũng gây bệnh thán thư trên cây xoài.

QUY TRÌNH KỸ THUẬT TRỒNG XOÀI THEO VIETGAP

I. GIỐNG TRỒNG

Hiện nay, tại Đồng bằng sông Cửu Long có rất nhiều giống xoài. Tùy theo điều kiện đất đai, nguồn nước, thị trường tiêu thụ mà chọn những giống phù hợp, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Xoài cát Hòa Lộc: Trái to, trọng lượng trung bình 400-500gr/trái, phẩm chất ngon, vị thơm, thịt mịn chắc, khi chín vỏ quả có màu vàng chanh, thịt có màu vàng tươi, rất ngọt (độ Brix trung bình từ 16-18%), được thị trường ưa chuộng, bán với giá cao. Tuy nhiên, giống xoài này có vỏ mỏng nên khó vận chuyển và xuất khẩu vì dễ bị dập nếu chuyên chở không cẩn thận và giống này có tỉ lệ đậu trái thấp.

Xoài Cát Chu: Trái dạng hơi tròn, trọng lượng trung bình 300-350gr/trái, phẩm chất khá ngon, vị hơi chua (độ Brix 15-16%), thịt quả không dẻ, chặt nhưng ít xơ và vỏ trái dày hơn xoài cát Hòa Lộc. Ưu điểm là dễ đậu trái và cho năng suất cao.

Ngoài các giống xoài trên, còn có một số giống xoài dùng để “ăn xanh” như xoài Falun, Kiew-Savoey, Nam-Dok-Mai (Thái Lan) và đặc biệt là xoài Tượng Đài Loan rất được ưa chuộng vì trái lớn, dễ ra hoa, đậu trái và cho năng suất cao.

II. ĐẤT TRỒNG

– Xoài thích hợp trên nhiều loại đất, nhưng tốt nhất là đất thịt pha cát có tầng đất mặt dày, thoát nước tốt, có thuỷ cấp không sâu quá 2,5m, pH từ 5,5-7,0 và cần có đê bao chống lũ triệt để cho vườn xoài.

– Để thực hiện quy trình VietGAP cần vẽ sơ đồ vườn trồng, đính kèm bản đồ đất cho từng khu vực và đáp ứng các chỉ tiêu 1, 2, 3, 6, 7, 8, 9 của phụ lục 4.

III. KỸ THUẬT TRỒNG

1. Chuẩn bị cây giống:

Giống trồng phải đáp ứng theo chỉ tiêu thứ 4, 5 của phụ lục 4.

Nên chọn cây giống được nhân giống bằng phương pháp vô tính như tháp mắt (bo) hay tháp đọt cây sẽ mau cho trái (2-3 năm) và sẽ giữ được phẩm chất của cây mẹ. Cây giống tốt là cây không bị nhiễm sâu bệnh, phát triển tốt, có 2-3 cơi đọt, có đường kính than khoảng 1 cm, lá phải ở giai đoạn trưởng thành.

2. Chuẩn bị mô:

Mô trồng xoài có chiều cao trung bình 40-60 cm, chiều rộng đáy mô từ 60-80 cm và chiều rộng mặt mô từ 40-60 cm. Đất đắp mô tốt nhất là lớp đất mặt hoặc đất phù sa sông đã để khô ít nhất một tháng. Trước khi đắp mô, nên xới nền đất để giúp cho rễ cây xoài có thể phát triển xuống sâu hơn. Mỗi mô nên trộn thêm từ 5-10 kg phân hữu cơ hoặc phân chuồng để làm cho đất tơi xốp và 0,5 kg phân lân trước khi trồng để giúp cho rễ cây phát triển mạnh. Nếu phân hữu cơ ở dạng bán phân hủy nên chuẩn bị mô trước từ 15-20 ngày để giúp cho phân tiếp tục phân hủy. Hàng năm nên bồi mô rộng ra để giúp cho rễ cây xoài phát triển.

3. Mật độ và khoảng cách trồng:

Xoài là cây ưa sáng và có trái ở chồi tận cùng ngoài tán cây. Nếu trồng quá dày, cây sẽ che rợp lẫn nhau dẫn đến năng suất thấp nhưng trồng quá thưa những năm đầu vườn xoài sẽ có sản lượng thấp. Theo phương pháp trồng xoài cổ điển thì trồng khoảng cách từ 6 – 8 m, tương đương mật độ 156-277 cây/ha. Hiện nay, xu hướng trồng xoài mật độ cao với khoảng cách (5 x 6)m hoặc (6 x 6)m, tương đương 277-333 cây/ha sau đó đốn tỉa dần.

4. Quản lý nước:

-Hàng năm, phân tích chất lượng nước để đánh giá nguy cơ ô nhiễm nhằm đưa ra biện pháp khắc phục. Chất lượng nước tưới phải đáp ứng các chỉ tiêu 15, 16 của phụ lục 4.

-Hệ thống đê bao để quản lý nước trong vườn xoài là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công, đặc biệt là điều khiển cho xoài ra hoa trái vụ. Phải chống ngập úng trong mùa mưa lũ và tưới cho cây xoài trong mùa khô.

-Cây xoài cần đảm bảo đủ nước cho từng giai đoạn sinh trưởng, riêng giai đoạn kích thích ra hoa cần phải “xiết” nước để giúp cây ra hoa tốt.

Tóm lại, chủ động được nước là yêu cầu quan trọng hàng đầu trong việc thâm canh cây xoài.

5. Quản lý phân bón:

Phải đáp ứng các chỉ tiêu 10, 11, 12, 13, 14 của phụ lục 4. Nếu nhà vườn tự ủ phân chuồng thì cần xây dựng và đặt bể ủ phân đảm bảo cách ly, không gây ô nhiễm cho vườn trồng và nguồn nước tưới. 

5.1. Các chất dinh dưỡng cần thiết:

Cây xoài cần nhiều nhất là đạm, lân, kali, canxi, ma-nhê, ….

Đạm: Đạm là yếu tố quan trọng hàng đầu thúc đẩy phát triển thân lá, rất cần cho sự ra hoa và đậu trái của xoài. Việc bón đạm cho xoài qua sự hấp thu của rễ cũng thúc đẩy sự ra hoa nhưng không tập trung như phun qua lá.

Lân: Hàm lượng chất lân trong chồi cao sẽ thúc đẩy sự phân hóa mầm hoa, nhưng nếu nồng độ chất lân thấp sẽ không thúc đẩy sự ra hoa. Lân giúp giảm độ chua của đất.

– Kali: Kali là yếu tố quan trọng thứ hai sau đạm ảnh hưởng lên sự ra hoa của xoài. Bón đạm kết hợp với kali sẽ giúp cải thiện đáng kể sự ra hoa, khả năng đậu trái và phẩm chất trái xoài.

Canxi: Canxi cần thiết cho sự phát triển vách tế bào thực vật, điều hòa pH đất tại vùng rễ, giúp các chồi non phát triển tốt, nâng cao năng suất, phẩm chất và hạn chế nứt trái.

5.2. Cách bón phân:

Khuyến khích sử dụng các loại phân hữu cơ và hữu cơ vi sinh trên vườn xoài.

– Đối với cây chưa cho trái: Bón 5-6 lần/năm với lượng phân bón trung bình: 10 kg phân hữu cơ kết hợp với khoảng 300-500gr NPK (16-16-8) hoặc (20-20-15) và 300gr Urea/cây/ năm.

– Đối với cây trưởng thành: (xem ở phần kích thích ra hoa).

* Lưu ý: Khi bón phân nên xới vòng tròn theo hình chiếu tán cây, trộn phân đều vào đất, sau đó tưới nước và tủ cỏ giữ ẩm.

IV. KỸ THUẬT QUẢN LÝ TÁN CÂY

1.Tạo tán

Tạo tán để giúp cho cây có tán cân đối, dễ chăm sóc và thu hoạch trái. Kỹ thuật tạo tán là tỉa bỏ chồi ngọn để cây phát triển theo chiều rộng. Sau khi trồng khoảng 8 -12 tháng, cây có chiều cao 1 – 1,2 m tiến hành bấm ngọn, chừa lại độ cao của thân chính 0,6 – 0,8 m. Khi ra cơi đọt 1 chừa lại 2 – 3 chồi khỏe và phân bố đều tán cây, tiếp tục thực hiện kỹ thuật này cho cơi đọt 2 và 3 để đảm bảo bộ khung hoàn chỉnh và cân đối cho cây.

Cây xoài phát triển tán nhờ vào sự phát triển của chồi ngọn và chồi bên. Để cây có tán thấp cần tạo điều kiện cho chồi bên phát triển bằng cách tỉa bỏ chồi ngọn.

2. Tỉa cành

Công việc tỉa cành hàng năm nhằm duy trì bộ khung tán cây và loại bỏ cành sâu bệnh, ra đọt sớm tập trung và dễ ra hoa.

Nên tỉa cành vào mùa khô thuận lợi cho sự sinh trưởng và ra đọt non, tỉa vào mùa mưa dễ bị nấm bệnh tấn công qua vết cắt và đọt non.

– Cây tơ: Cây chuẩn bị cho trái vào năm sau

Ngắt bỏ chồi ngọn khi cây được 2-3 lần đọt (cây cao từ 60-80 cm) để cây xoài phân cành sẽ được 2-3 cành ngang. Khi cành ngang phát triển theo chiều cao được 2-3 lần đọt thì ngắt đọt cho cây phân tán lần thứ hai để có được tổng cộng 9-12 chồi ngọn. Thực hiện việc ngắt ngọn lần thứ ba, cây xoài sẽ có bộ tán với trên 20 chồi ngọn. Sau giai đoạn này cây xoài có được tán cây khá hoàn chỉnh và chỉ cần tỉa bổ sung hàng năm để duy trì tán.

Tỉa cành trong giai đoạn đầu khi cây có số lá còn ít nên tỉa vừa phải, tỉa quá nhiều sẽ làm cây chậm lớn do số lá ít không đủ sức nuôi cây. Chỉ nên tỉa tối đa 1/3 số cành, lá của cây.

– Cây trưởng thành: Việc tỉa cành được thực hiện hàng năm sau khi thu hoạch nhằm kích thích cho cây ra đọt mới sớm và đồng loạt. Nên cắt những cành mọc trong tán (che khuất lẫn nhau), cành nhỏ, cành bị sâu bệnh, cành vượt, cành thấp sát mặt đất, hay những cành mang bông đã rụng hết trái cần được tỉa để giúp cho tán cây được thông thoáng, dễ chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh và thu hoạch.

Đối với những cây xoài lão: Có thể làm trẻ hoá bằng cách cưa bớt, bỏ hết những nhánh con chỉ chừa lại bộ khung chính. Cây trẻ hoá sẽ cho cành lá rất mạnh và chỉ ra hoa 1-2 năm sau.        

* Lưu ý: Dụng cụ dùng trong tỉa cành, tạo tán phải được vệ sinh sạch sẽ, khử trùng dụng cụ bằng nước Javel hoặc cồn 70o khi cắt hoặc tỉa cành để tránh lây bệnh qua cây khác.  

V. KỸ THUẬT ĐIỀU KHIỂN RA HOA NGHỊCH MÙA

1. Các yếu tố ảnh hưởng lên sự ra hoa xoài:

a) Yếu tố môi trường:

Môi trường là yếu tố quan trọng ảnh hưởng lên sự ra hoa và là bước đầu tiên để đạt được khả năng cho năng suất cao.

Nhiệt độ: Nhiệt độ thấp kích thích tạo mầm hoa và làm cho cây trổ bông, những năm không lạnh cây sẽ ra hoa ít và thời gian ra hoa kéo dài. Nhiệt độ vào ban đêm từ 18-20oC thuận lợi cho sự ra hoa của xoài. Ở ĐBSCL, tháng 12-1dl có nhiệt độ thích hợp kích thích cho sự ra hoa nên xoài thường ra hoa vào tháng 1-2 dl.

– Tạo sự khô hạn và ngập úng: Biện pháp “xiết nước” để gây “sốc” cho cây ra hoa (rất hiệu quả ở giai đoạn kích thích ra chồi đồng loạt), “tạo ngập úng” cũng là một yếu tố thúc đẩy sự ra hoa trên cây xoài. Do đó, kết hợp hai biện pháp này cây xoài sẽ ra hoa sớm và đáp ứng tốt với việc xử lý ra hoa nghịch mùa.

b) Giống:

Sự ra hoa của xoài lệ thuộc nhiều vào đặc tính giống. Ở nước ta, các giống xoài Thơm, Chu, Thanh Ca, xoài Ù,… rất dễ kích thích ra hoa, trong khi giống xoài cát Hòa Lộc thì tương đối khó hơn.

c) Tuổi của cành:

Tuổi cành cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng lên sự ra hoa của xoài. Cành còn non kích thích xoài sẽ ra đọt, trái lại cành già (lớn hơn 10 tháng tuổi do hình thành từ năm trước) thì miên trạng rất sâu nên khó kích thích ra hoa. Kết quả nghiên cứu trên các giống xoài ở ĐBSCL thì ngoại trừ giống xoài cát Hòa Lộc kích thích ra hoa đạt hiệu quả cao khi cành 1,5-2 tháng tuổi (lá chuyển từ màu xanh nhạt sang màu xanh đậm). Đối với xoài cát Chu, Thanh Ca, Bưởi, xoài Ù có thể kích thích ra hoa khoảng 1,5 tháng tuổi khi lá còn dẻo.

d) Tình trạng sinh trưởng và năng suất năm trước của cây:

Tình trạng sinh trưởng của cây và năng suất năm trước có ảnh huởng rất lớn lên sự ra hoa xoài.

– Cây xoài bị kiệt sức do đậu trái quá nhiều hoặc cho năng suất cao trong năm trước sẽ làm giảm khả năng đâm chồi và phân hóa mầm hoa ở năm tiếp theo. Do đó, những năm cây đậu trái quá nhiều cần phải tỉa bớt trái và phải bón phân nhiều hơn để cây không bị suy kiệt ở năm tiếp theo.

– Đối với cây cho trái ít ở năm trước hoặc cây đang phát triển thân lá mạnh rất khó xử lý ra hoa, nên hạn chế bón lượng phân đạm, kết hợp với phương pháp tạo sự khô hạn và sử dụng Paclobutrazol giúp cho cây xoài ra hoa tốt hơn.

2. Quy trình xử lý ra hoa xoài:

Có nhiều biện pháp để kích thích ra hoa xoài như: xông khói, khoanh cành, xử lý hóa chất như Ethephon (Ethrel, HPC 97 hay Ra Hoa Xanh), Nitrat kali hay Paclobutrazol (Paclo)….

Quy trình xử lý ra hoa xoài sử dụng Paclobutrazol:

* Giai đoạn sau thu hoạch:

Cần tỉa bỏ những cành: đã thu hoạch trái, vô hiệu, ốm yếu, bị sâu bệnh, che rợp lẫn nhau và phát hoa không mang trái để giúp cho cây ra đọt đồng loạt tạo điều kiện ra hoa đồng loạt

Bón phân: Tùy theo tình trạng sinh trưởng của cây, năng suất mùa trước có thể áp dụng theo công thức như sau: Phân hữu cơ 10kg/cây kết hợp NPK 20-20-15 + Urê theo tỉ lệ 1:1 với lượng 1,5-2,0 kg/cây cho cây trên 10 năm tuổi.

– Sau khi bón phân cần tưới nước 2-3 ngày/lần giúp cây hấp thụ phân tốt.

– Kích thích cho cây ra đọt non đồng loạt bằng cách phun Urê với liều lượng 150-200 gr/10 lít nước (lưu ý dễ cháy lá), các sản phẩm có chứa Gibberellin (GA3).

* Giai đoạn ra đọt non:

Đây là đợt đọt quan trọng quyết định sự ra hoa, do đó cần chú ý phòng trừ các loại sâu bệnh để bảo vệ đọt non. Các loại sâu bệnh cần chú ý: Bệnh thán thư, rầy bông xoài, bọ cắt lá và sâu đục cành ….  

* Xử lý ra hoa:

+ Xử lý Paclobutrazol khi lá non phát triển hoàn toàn, lúc lá có màu đỏ đồng và được 10-15 ngày tuổi. Pha 1-2 gr hoạt chất/1m đường kính tán với 3-5 lít nước tưới quanh gốc cây, sau đó tưới nước liên tục 1-2 ngày/lần trong 7 ngày.

+ 25-30 ngày sau khi xử lý Paclo thì bón phân: DAP + KCl theo tỉ lệ 1:1 với lượng 300-500gr/cây và phun MKP 0-52-34 với liều lượng 50-80 gr/10 lít nước, cách 10 ngày phun 1 lần, phun 2 – 3 lần.

+ 45-60 ngày sau khi xử lý Paclo thì phun KNO3 kích thích ra hoa. Phun khi thời tiết khô ráo, chồi ngọn phát triển mạnh, nhô cao, gân lá phát triển hoặc cong lại. 5-7 ngày sau tiến hành phun lại lần 2 với liều lượng giảm 50%.

* Giai đoạn ra hoa:

– Bón thúc cho hoa phát triển với phân NPK 15-15-15 với liều lượng 200-300gr/cây.

– Phun thuốc phòng ngừa rầy bông xoài, bọ trĩ và bệnh thán thư.

– Phun các sản phẩm tăng đậu trái có chứa Bo hai đợt, đợt 1 khi hoa khoảng 10 cm, đợt 2 khi hoa nở khoảng 15% trên bông.

* Giai đoạn đậu trái “rớt nhụy”:

Hoa xoài thụ phấn chủ yếu nhờ côn trùng như ruồi, ong,… nên hạn chế phun các loại thuốc trừ sâu bệnh trong giai đoạn này để không làm ảnh hưởng đến quá trình thụ phấn của hoa. Chú ý, nếu gặp thời tiết xấu có thể phun ngừa bệnh thán thư và bọ trĩ.

* Giai đoạn phát triển trái:

– Giai đoạn trứng cá (7-10 ngày sau khi đậu trái/NSKĐT): phun một trong các loại phân bón lá như: HVP, 15-30-15 hoặc Canxi nitrat 0,5%,… để giảm rụng trái non.

– Giai đoạn 30 NSKĐT: Phun GA3 để giảm rụng trái non.

– Giai đoạn 45 NSKĐT: Bón phân gốc để giúp cho trái phát triển. Có thể dùng phân NPK 20-20-15 liều lượng 400-500 gr/cây 7-8 năm tuổi, 1-1,5 kg/cây >10 năm tuổi. Phun GA3để làm giảm rụng trái non, phun Canxi nitrat hoặc Clorua canxi với liều lượng 10-20 gr/8 lít nước để hạn chế nứt trái. Phun 2-3 lần cách nhau 10 ngày/lần để làm tăng phẩm chất trái.

– Giai đoạn 60 NSKĐT: Nếu trái phát triển chậm, nên bón thêm 1-2 kg phân NPK 20-20-15/cây để giúp trái phát triển tốt.

– Giai đoạn 70-80 NSKĐT: Phun Nitrate kali nồng độ 1% để làm tăng phẩm chất trái.

Chú ý phòng trừ: Rầy bông xoài, sâu đo ăn bông, bọ trĩ, sâu đục trái (hột), bệnh thán thư …   

VI. BAO TRÁI

Tỉa tráiChọn những trái phát triển đều đặn để tiến hành bao trái, đối với cát Hòa Lộc chỉ để 1 trái/cuống, cát Chu để 3-4 trái/cuống.

Bao tráiTiến hành vào giai đoạn 30-45 NSKĐT.

Khi bao trái xếp miệng bao gọn gàng, kín và tạo thành hình mái nhà để không cho nước vào tiếp xúc với trái xoài. Khi thu hoạch xong đợt 1 phải phơi khô, xếp gọn, thẳng và xử lý thuốc trừ nấm bệnh trước khi bao đợt 2.

Nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, không khuyết tật, ngăn chặn sự tấn công của côn trùng, bệnh hại như: sâu đục trái, ruồi đục trái (đối tượng kiểm dịch của các nước nhập khẩu xoài), rệp sáp, bệnh thán thư, bệnh đốm da ếch, bệnh nứt trái xì mủ .

Bao trái sẽ hạn chế được số lần phun thuốc hóa học từ 5 – 7 lần/vụ, giúp vỏ trái bóng đẹp, bán được giá cao, góp phần hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận, giúp giảm ô nhiễm môi trường và không tồn dư thuốc BVTV trên trái.

* Lưu ý: Trước khi bao trái nên tiến hành phun thuốc BVTV để phòng trừ sâu bệnh.

VII. QUẢN LÝ SÂU BỆNH

– Quản lý sâu bệnh phải đáp ứng các chỉ tiêu từ thứ 17 đến 29 của phụ lục 4.

– Tập trung áp dụng các biện pháp quản lý sâu bệnh tổng hợp (IPM), quản lý cây trồng tổng hợp (ICM).

1. Sâu hại:

1.1. Sâu đục trái (Noorda albizonalis):

Bướm sâu đục trái xoài

Sâu đục trái xoài

Bướm đẻ trứng trên trái xoài non (30-45 NSĐT) ở phần đít trái, sâu có khoang trắng đỏ trên lưng, sâu non đục một lổ nhỏ và chui vào trong ăn phần thịt trái, sâu lớn tấn công vào ăn hạt xoài, vết đục tạo điều kiện cho nấm, vi khuẩn xâm nhập làm thối trái, trái non rụng nhiều, cắt trái xoài có sâu nằm bên trong.

* Phòng trị:

– Phải sử dụng bao trái.

– Thu gom những trái bị hại đem tiêu hủy.

1.2. Rầy bông xoài (Idioscopus spp.):

Gây hại trên các bộ phận non như bông, đọt, lá và trái non, rầy chích hút làm lá không phát triển, lá bị cong, rìa lá khô, phát bông bị khô, trái không phát triển và rụng đi.

Rầy còn thải ra mật đường làm cho nấm bồ hóng phát triển mạnh gây đen bông và trái. Khi vào vườn xoài có rầy hiện diện sẽ nghe những tiếng động nhỏ do rầy di chuyển nên rất dễ phát hiện.

* Phòng trị:

– Tỉa cành tạo điều kiện thông thoáng để hạn chế sự phát triển của rầy.

– Một số loài thiên địch rầy bông xoài như: bọ xít ăn thịt (Revudiidae), ong ký sinh và nấm Verticellium lecanii, Hirsutella sp.

Ấu trùng rầy bông xoài

Rầy bông xoài trưởng thành

1.3. Rệp sáp (Pseudoccoccus sp):

Rệp sáp hại cành và lá xoài

Rệp sáp hại quả xoài

Có nhiều loài rệp sáp gây hại trên xoài nhưng quan trọng là loài gây hại trên trái vì chúng gây ảnh hưởng đến chất lượng, năng suất và giá trị của trái.       

Rệp sáp ở mặt dưới lá, chích hút nhựa lá non, cuống trái, chất thải của rệp tạo điều kiện nấm bồ hống phát triển làm cho trái chậm lớn.

* Phòng trị:

– Bảo tồn thiên địch như: ong ký sinh và bọ rùa … để hạn chế rệp sáp.

– Phun thuốc hóa học như : dầu khoáng DS 98.8 EC, Admire 050 EC, Supracide 40 EC.

1.4. Ruồi đục quả xoài (Bactrocera dorsalis):

Ruồi đục quả xoài

Quả xoài bị ruồi đục

– Ruồi trưởng thành màu vàng, cánh trong, hoạt động vào ban ngày, đẻ trứng lên quả phần tiếp giáp giữa vỏ và thịt quả, trứng hình quả chuối màu trắng ngà sau chuyển sang màu vàng nhạt. Giòi nở ra đục vào trong ăn thịt trái, vỏ trái nơi ruồi đục vào có màu đen, mềm, ứ nhựa, tạo điều kiện cho nấm bệnh tấn công làm thối trái và có thể bị rụng hoặc vẫn đeo trên cây. Ruồi làm nhộng trong đất quanh gốc cây, sau đó vũ hóa, chui lên mặt đất.

– Ruồi đục quả là đối tượng kiểm dịch khi xuất nhập khẩu trái cây. Ruồi tấn công lên nhiều loại cây trồng, trái xoài bị ruồi đục làm giảm giá trị thương phẩm, chất lượng và không xuất khẩu được. 

* Phòng trị:

– Phải sử dụng bao trái.

– Không trồng xen các loại cây ăn trái khác trong vườn xoài.

– Thu, hái và đem tiêu hủy toàn bộ trái rụng trên mặt đất và trái còn đeo trên cây vì là nơi ruồi lưu tồn.

– Dùng feremone dẩn dụ để giết ruồi đực.

– Phun mồi protein thủy phân: Do ruồi cái thích ăn protein để phát triển trứng, ruồi đực phát triển tinh trùng, nên có thể dùng bả mồi protein để diệt ruồi. Pha 4cc Malate 73 EC với 55cc mồi protein trong 1 lít nước. Phun 200cc hổn hợp này cho 1 cây, phun theo từng điểm, để dẫn dụ và diệt ruồi. Đây là phương pháp hiệu quả và phù hợp với sản xuất trái cây theo hướng an toàn và khuyến cáo áp dụng đồng loạt cả khu vực.

1.5. Bọ cắt lá (Deporaus marginatus):

Thường gây hại nặng trong vườn ươm cây con hoặc ở vườn xoài mới ra đọt non vào mùa khô. Thành trùng là bọ cánh cứng màu nâu vàng, đầu và ngực màu đỏ cam, miệng là cái vòi dài. Thành trùng thường đẻ trứng trên bìa lá non vào ban đêm, sau đó bọ cắn lá như cắt ngang chừa 1/3 lá trên cây, trứng sẽ theo 2/3 lá cắt rơi xuống đất, sau 2 ngày ấu trùng sẽ nở ra, ăn phần lá rơi và hóa nhộng dưới mặt đất. Bọ cắt lá gây ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và ra hoa rất lớn, do làm giảm diện tích lá trên chồi.

* Phòng trị:

– Điều khiển cây ra đọt non đồng loạt.

– Thu dọn các lá bị hại trong vườn đem tiêu hủy.

1.6. Sâu đục cành non (Alcicodes sp.):

Bướm và nhộng sâu đục cành xoài

1.7. Nhện đỏ (Oligonichus sp.):

Nhện đỏ

Lá xoài bị nhện đỏ gây hại

Sống tập trung ở mặt dưới những lá đã chuyển sang màu xanh, chích hút dịch lá, trái làm cho lá có màu đồng hoặc xám bạc và làm vỏ trái sần sùi gây hiện tượng da cám. Dọc gân chính của lá có nhiều vết lấm tấm nhỏ, đó là lớp da củ của nhện sau lột xác còn để lại. Nhện đỏ phát triển mạnh khi thời tiết nắng nóng, quan sát kỹ mặt dưới lá sẽ thấy chúng di chuyển.

* Phòng trị:

– Dùng vòi nước áp lực cao phun phía dưới mặt lá.

– Bảo tồn thiên địch để hạn chế được sự bộc phát của nhện.

– Khi mật số nhện cao, có thể sử dụng thuốc hóa học để phòng trị.

1.8. Bọ trĩ (Bù lạch) (Scirtothrips dorsalis Hood):

Bọ trĩ hại xoài

Bọ trĩ gây hại trên lá xoài

Bọ trĩ gây hại trên bông và quả xoài

Thành trùng có kích thước rất nhỏ 0,1-0,2 mm, khó nhìn thấy bằng mắt thường. Cả con trưởng thành và ấu trùng đều tập trung ở bộ phận non của cây như đọt non, lá non, hoa và trái để chích hút nhựa. Trên lá non làm lá thâm đen và cong queo, mép lá cụp xuống, trên trái tạo thành vùng da cám xung quanh cuống trái và tạo vết thương giúp vi khuẩn xâm nhập gây bệnh xì mủ trái, gây hại nặng có thể làm cho cả hoa xoài cháy khô. Bù lạch phát triển mạnh khi thời tiết nắng nóng và sinh sản rất nhanh nên rất mau kháng thuốc.

– Dùng vòi nước áp lực cao phun phía dưới mặt lá.

– Dùng dầu khoáng DS 98.8 EC + Actara 25 WG phun lúc cây ra đọt và lá non giúp ngừa được cả rầy bông xoài và sâu đục đọt xoài, không phun dầu khoáng giai đọan hoa đang nở. Phun đồng loạt trên khu vực rộng sẽ có hiệu quả cao hơn.

– Phun thuốc hóa học: Nên dùng các loại thuốc có nguồn gốc sinh học và tuân thủ nguyên tắc 4 đúng.

*Lưu ý: cần phải thường xuyên luân phiên các nhóm thuốc với nhau để ngăn chặn hiện tượng kháng thuốc.

2. Bệnh hại xoài:

2.1. Bệnh thán thư:

Do nấm Colletotrichum gloeosporioides gây ra.

Bệnh thán thư trên lá xoài

Bệnh thán thư trên bông xoài

Bệnh thán thư trên quả xoài

Bệnh gây hại nặng vào mùa mưa, những ngày có sương mù hoặc có mưa nhỏ kéo dài nhất là mưa đêm. Bệnh gây hại trên lá, cành non, phát hoa và tất cả các giai đoạn phát triển của trái. Trên lá non, vết bệnh ban đầu như mũi kim màu xanh đậm, sau chuyển nâu, to dần, ở giữa bị khô và rách, có thể làm lá bị biến dạng. Hoa, trái non bị đen sau đó khô và rụng. Trái lớn có những vết đen lõm tạo thành những vòng đồng tâm.

* Phòng trị:

– Tạo thông thoáng cho vườn (mật độ cây trồng hợp lý, tỉa cành tạo tán).

– Cắt tỉa và tiêu hủy các lá, cành, trái bị bệnh.

– Không nên tưới nước lên tán cây khi cây bị bệnh.

2.2. Bệnh thối trái, khô đọt: Do nấm Diplodia natalensis gây ra.

Bệnh gây hại trong điều kiện nóng ẩm, nhất là trong mùa mưa, ở phần đọt có những đốm nhỏ sậm màu, lan dần ra các cành non, cuống lá biến thành màu nâu, phiến lá cong lên. Cành khô và đôi khi có hiện tượng chảy nhựa.

Trên trái, bệnh tấn công vào giai đoạn thu hoạch và tồn trữ, làm thịt trái bị chai sượng, bên trong thịt trái ta thấy những sọc đen chạy dọc theo trái.

* Phòng trị:

– Khi thu hoạch nên chừa cuống trái khoảng 5cm, không làm xay xát trái trong khi thu hoạch cũng như lúc vận chuyển.

– Không thu hoạch trái lúc sáng sớm hoặc sau mưa.

2.3. Bệnh da ếch: Do nấm Chaetothyrium sp. gây ra.

Bệnh da ếch

Bệnh thường gây hại trên xoài Bưởi, xoài cát Hoà lộc, xoài thơm… bệnh gây hại nặng trong điều kiện ẩm độ cao.

Bệnh nhiễm rất sớm khi trái còn non, thường bắt đầu từ cuống trái và lan dần xuống bên dưới. Vết bệnh đầu tiên là những chấm nhỏ màu đen, tròn, sau đó lan dần ra và tạo thành các đốm màu đen rải rác trên vỏ trái xoài. Bệnh thường không làm hư trái mà làm giảm giá trị thương phẩm, bệnh nặng sẽ làm hư vỏ trái.

* Phòng trị:

– Phải sử dụng bao trái.

– Tạo thông thoáng cho vườn (mật độ cây trồng hợp lý, tỉa cành tạo tán).

 2.4. Bệnh phấn trắng: Do nấm Oidium mangiferae gây ra.

Nấm bệnh phát triển tạo thành lớp phấn trắng trên lá non, phát hoa và trái non. Bệnh thường phát triển từ ngọn của phát hoa, lan dần đến cuống hoa, trái non, lá non và cành. Thường hoa bị nhiễm bệnh trước khi thụ phấn và trái bị nhiễm bệnh sẽ bị biến dạng, méo mó, nhạt màu, bị khô và rụng sớm.

Bệnh gây thiệt hại nặng nhất trong giai đoạn trổ hoa đến đậu trái, trong điều kiện nóng ẩm và có sương đêm, bệnh sẽ bộc phát và lây lan nhanh.

 * Phòng trị: 

– Cắt tỉa cành, tạo tán cho cây phát triển mạnh, cung cấp phân bón đầy đủ.

– Thăm vườn thường xuyên để sớm phát hiện bệnh trong giai đoạn cây ra bông và đậu trái non.

– Có thể bao trái khi xoài hết giai đoạn rụng sinh lý (từ 35 – 40 ngày tuổi) để phòng ngừa nấm bệnh và tránh ruồi đục quả.

2.5. Bệnh nấm hồng: Do nấm Corticium salmonicolor gây ra.

Bệnh gây hại trên thân, cành, nhánh. Đầu tiên trên mặt vỏ thân hay nhánh có tơ nấm trắng, sau đó tạo thành những mảng màu hồng. Đôi khi không thấy mảng màu hồng mà chỉ thấy các gai nấm màu hồng phát triển từ các vết ở vỏ thân hay nhánh.

Khi nấm tấn công làm cho nhánh và thân bị mất dinh dưỡng, bệnh nặng làm nhánh khô và chết. Bệnh thường phát triển trên những cây có tàn lá rậm rạp và che khuất nhau, nhất là vào những tháng mưa nhiều. Nấm có thể gây hại trên nhiều loại cây trồng khác nhau đặc biệt như mít, sầu riêng,…

* Phòng trị:

– Tạo thông thoáng cho vườn (mật độ cây trồng hợp lý, tỉa cành tạo tán).

– Cắt bỏ và tiêu hủy các nhánh nhiễm bệnh.

2.6. Bệnh xì mủ trái: Vi khuẩn  Xanthomonas campestris pv. Mangiferae.

Bệnh đốm đen vi khuẩn trên lá xoài

Bệnh xì mủ vi khuẩn trên trái xoài

Bệnh xì mủ vi khuẩn trên quả chụp gần

Bệnh này có thể gây hại cả trái và lá xoài. Trên trái, có nhiều vết nứt ngả màu đen, có mủ rịn ra mang theo vi khuẩn. Trên lá, tạo ra các đốm đen có hình dạng bất định, tâm hơi xám, viền đen hơi gồ lên.

Vi khuẩn lây lan qua đường nước nên trong mùa mưa là điều kiện thuận lợi cho bệnh phát triển. Vi khuẩn xâm nhập vào trái qua các vết thương, vết chích của côn trùng (bù lạch, nhện đỏ, ruồi đục trái…).

 * Phòng trị:

– Phải sử dụng bao trái.

– Không nên phun nước lên lá xoài khi cây bị bệnh để tránh lây lan bệnh ra cả vườn.

– Bảo tồn thiên địch để hạn chế nhện đỏ và bù lạch.

VIII. THU HOẠCH VÀ SAU THU HOẠCH

Quản lý khâu thu hoạch và sau thu hoạch phải đáp ứng các chỉ tiêu từ thứ 30 đến 45 của phụ lục 4. 

1. Thu hoạch:

Thu hoạch phải đúng độ chín (trái sẽ chìm khi thả vào nước hoặc tỉ trọng bằng 1,02), nhằm đảm bảo chất lượng trái và bảo quản trái sau thu hoạch được lâu hơn. Nên thu hoạch lúc trời mát, không thu hoạch sau mưa hoặc có sương mù nhiều vì trái dễ bị thối khi tồn trữ. Lúc thu hoạch trái nên để cuống dài từ 5-10 cm để tránh không bị chảy nhựa làm tăng giá trị thương phẩm.

2. Bảo quản:

– Ở nhiệt độ bình thường, chỉ có thể giữ trái được khoảng 5-7 ngày. Để kéo dài thời gian bảo quản nên giữ trái trong điều kiện nhiệt độ là 120C và ẩm độ khoảng 90%. Trong quá trình bảo quản nên thông gió thường xuyên và chú ý tạo đối lưu đồng đều trong kho.  Ngoài ra, nếu bảo quản ở nhiệt độ 10-130C trong bao PE chuyên dùng thì thời gian tồn trữ có thể lên đến 22 ngày.

– Trái không để tiếp xúc trực tiếp với đất, tránh chất thành đống và phải còn nguyên cuống (dài khoảng 5cm), quay ngược đầu lại để cho khô nhựa trước khi bao giấy đưa vào thùng.

Quy trình xử lý và bảo quản xoài sau thu hoạch

Xoài (chăm sóc tốt trước thu hoạch)             

Thu hoạch (85-90 ngày sau đậu trái)

Rửa sạch (bằng nước)                      

Xử lý phòng ngừa thối trái (ngâm nước nóng…)

Đóng gói (thùng carton)            

Bảo quản hoặc vận chuyển (120C, 85-90% RH)

Làm chín.

Tư vấn kĩ thuật: 0933.067.033