Chat hỗ trợ
Chat ngay

BIỆN PHÁP PHÒNG VÀ TRỊ NẤM – TUYẾN TRÙNG HẠI ỚT

Một số thuốc được khuyến cáo sử dụng để diệt côn trùng chích hút như:  Brightin 1.8ec (hoạt chất Abamectin), Alfatin 1.8ec (hoạt chất Abamectin), Binhtox 1.8ec (hoạt chất Abamectin), Vinoroots (hoạt chất chitosan),…

BỆNH NẤM MỐC BỘT

BỆNH NẤM MỐC BỘT TRÊN CÂY ỚT


Mầm bệnh: Leveillula taurica (giai đoạn bất toàn = Oidiopsis taurica)

CÁC TRIỆU CHỨNG VÀ DẤU HIỆU

Nấm mốc bột chủ yếu ảnh hưởng đến lá cây ớt. Mặc dù bệnh thường xảy ra ở những lá già ngay trước hoặc trong khi cây ra quả, bệnh vẫn có thể phát triển ở bất cứ giai đoạn phát triển nào của cây ớt. Các triệu chứng bao gồm lá bị loang lổ, trắng, vết loang bột ngày càng rộng và hợp lại để bao phủ toàn bộ bề mặt dưới của lá. Qua thời gian, vết loang bột cũng sẽ hiện diện ở mặt trên của lá. Lá ớt có nấm mốc phát triển ở mặt dưới có thể đổi sang màu vàng nhợt hay nâu nhạt loang lổ ở mặt trên. Các viền của lá nhiễm nấm có thể cuộn lên phía trên để lộ vết loang nấm bột màu trắng. Các lá bệnh rụng khỏi cây và làm cho cây ớt bị phơi nắng nhiều và có thể dẫn đến cháy nắng.

NHẬN XÉT VỀ BỆNH

Nấm mốc bột có thể đặc biệt nghiêm trọng trong những tháng nóng và có thể gây ra mất mùa nặng. Mầm bệnh có phạm vi vật chủ rất rộng và có thể lây truyền giữa những loài khác nhau. Ở California, nấm mốc bột có thể đến từ những cây trồng như hành, bông, cà chua, tất cả các loài ớt, và các loài cây cỏ dại như cây diếp gai và tầm bóp (thù lù).

Mầm bệnh nấm mốc bột này khác với những mầm bệnh nấm mốc bột ở các giống cây khác mà bệnh xảy ra chủ yếu bên trong lá thay vì trên bề mặt lá. Cleistothecia (bào tử hữu tính) của Leveillula ở giai đoạn toàn diện hiếm khi xảy ra, nhưng các bào tử vô tính (conidia) được sản sinh và được gió gieo rắc. Nói chung, độ ẩm cao tạo điều kiện cho conidia nẩy mầm. Sự lây nhiễm nấm của cây trồng có thể xảy ra trong một phạm vi nhiệt độ rộng (18° đến 33°C) ở cả nhiệt độ cao lẫn nhiệt độ thấp. Trong những điều kiện thích hợp, sự lây nhiễm thứ cấp xảy ra cứ 7 đến 10 ngày, và bệnh có thể lan truyền nhanh chóng. Nhiệt độ trên 35°C có thể tạm thời ngân cản sự phát triển của bệnh nấm mốc bột.

XỬ LÝ

Việc thường xuyên theo dõi để phát hiện nấm mốc bột, đặc biệt là trong thời tiết ấm, là rất quan trọng để áp dụng các loại thuốc diệt nấm kịp thời để ngăn ngừa thiệt hại. Nấm mốc bột được xử lý chủ yếu bằng thuốc diệt nấm.

Kiểm Soát Cây Trồng

Loài nấm gây ra mốc bột có thể tồn tại trong thời gian các mùa vụ trên những cây trồng khác và các loài cỏ dại. Mức độ sống sót tùy thuộc vào các điều kiện môi trường. Do phạm vi vật chủ rộng lớn của nấm, rất khó để kiểm soát lượng mầm bệnh qua mùa đông. Do đó, những phương pháp vệ sinh đơn giản trong và xung quanh các ruộng ớt có thể không làm giảm mầm bệnh đủ để kiểm soát bệnh này.

Phần lớn các giống ớt không có mức độ kháng bệnh mốc bột khả quan. Hiện tại, chưa có chương trình gây giống nào nhằm mục đích phát triển các giống ớt kháng bệnh nấm mốc bột.

Các Phương Pháp Được Chấp Nhận Là Hữu Cơ

Phun lưu huỳnh và kali bicarbonate được chấp nhận sử dụng trong trồng ớt hữu cơ.

Các Quyết Định Xử Lý

Các loại thuốc diệt nấm có thể giúp kiểm soát bệnh hiệu quả và ngăn chặn tổn thất kinh tế nếu áp dụng trong những giai đoạn đầu nhiễm bệnh. Để kiểm soát hiệu quả cần phải phun với áp suất cao và lượng nước lớn để thuốc diệt nấm đạt được sự xâm nhập tối ưu vào các tán cây. Sự phun phủ tốt là rất cần thiết; phun trên đất sẽ phủ tốt hơn phun trên không.

Tên phổ thông Lượng dùng mỗi hecta R.E.I.+ P.H.I.+
(tên thương mại)   (giờ) (ngày)

Khi chọn một loại thuốc sâu, hãy cân nhắc các thông tin liên quan đến chất lượng môi trường. Không phải tất cả các thuốc trừ sâu có đăng ký đều được nêu ra. Hãy luôn đọc kỹ nhãn của sản phẩm được sử dụng.
 
A. SULFUR DF# 5,6 kg 24 0
  TÊN (SỐ HIỆU1) NHÓM CÁCH XỬ LÝ: Tiếp xúc đa điểm (M2)
  CHÚ THÍCH: Chỉ kiểm soát một phần ngay cả khi phun sớm. Để ngăn ngừa sự tổn thương cho cây trồng, không phun trong vòng 2 tuần nếu đã phun dầu.
 
B. AZOXYSTROBIN
  (Quadris) 450–1.150 ml 4 0
  TÊN (SỐ HIỆU1) NHÓM CÁCH XỬ LÝ: Chất gây ức chế bên ngoài Quinon (11)
 
C. PYRACLOSTROBIN
  (Cabrio EG) 600–900 ml 12 0
  TÊN (SỐ HIỆU1) NHÓM CÁCH XỬ LÝ: Chất gây ức chế bên ngoài Quinon (11)
  CHÚ THÍCH: Không phun quá 6 lần mỗi mùa.
 
D. MYCLOBUTANIL
  (Rally 40W) 300 ml 24 0
  TÊN (SỐ HIỆU1) NHÓM CÁCH XỬ LÝ: Chất gây ức chế khử mety(3)
  CHÚ THÍCH: Không phun quá 4 lần mỗi năm. Không phun quá 1.4 kg/ha.
 
E. QUINOXYFEN
  (Quintec) 300–450 ml 12 3
  TÊN (SỐ HIỆU1) NHÓM CÁCH XỬ LÝ: Quinolin (13)
  CHÚ THÍCH: Dùng để thay thế luân phiên sau mỗi lần sử dụng một loại thuốc diệt nấm có nhóm cách xử lý khác.
 
F. TRIFLOXYSTROBIN
  (Flint) 110–150 ml 12 3
  TÊN (SỐ HIỆU1) NHÓM CÁCH XỬ LÝ: Chất gây ức chế bên ngoài Quinon (11)
 
G. POTASSIUM BICARBONATE
  (Kaligreen) 180–220 ml 4 1
  CÁCH XỬ LÝ: Một loại muối vô cơ.
  CHÚ THÍCH: Tuy sản phẩm này đã được thử nghiệm cho những loại cây trồng khác, nghiên cứu vẫn đang thiếu dữ liệu sử dụng cho cây ớt và các quan sát cho thấy rằng sản phẩm chỉ giúp kiểm soát một phần. Phun phủ kỹ và thường xuyên là điều cần thiết.
 
** Xem nhãn để biết tỷ lệ pha loãng.
+ Khoảng thời gian hạn chế vào (R.E.I.) là số giờ (trừ khi được ghi khác) từ khi phun thuốc cho đến khi có thể bước vào khu vực được phun mà không cần đồ bảo hộ. Khoảng thời gian trước thu hoạch (P.H.I.) là số ngày từ khi phun thuốc đến khi được thu hoạch. Trong một số trường hợp REI vượt PHI. Trong hai chỉ số này, chỉ số nào dài hơn sẽ là thời gian tối thiểu phải bỏ qua trước khi thu hoạch.
# Được chấp nhận sử dụng trong trồng trọt hữu cơ.
1 Luân phiên các hóa chất với một số hiệu Nhóm cách-xử-lý khác nhau, và không sử dụng các sản phẩm có cùng một số hiệu Nhóm cách-xử-lý hơn hai lần mỗi mùa để đề phòng sâu bệnh kháng thuốc. Ví dụ, the organophosphates có số hiệu Nhóm 1B; các hóa chất có số hiệu Nhóm 1B nên được thay thế bằng các hóa chất có một số hiệu Nhóm khác 1B. Các số hiệu Nhóm cách-xử-lý được chỉ định bởi IRAC (Ban Xử Lý Kháng Thuốc Trừ Sâu).

Nguồn: sưu tầm.

Tư vấn kĩ thuật: 0933.067.033

CÁC BỆNH KHẢM DO VIRUS Y GÂY RA TRÊN CÂY ỚT

CÁC BỆNH KHẢM DO VIRUS Y GÂY RA TRÊN CÂY ỚT


Các mầm bệnh: Vi rút gây vằn ớt potyvirus (PepMoV), Vi rút khắc thuốc lá potyvirus (TEV), và Vi rút khoai tây Y potyvirus (PVY)

CÁC DẤU HIỆU VÀ TRIỆU CHỨNG

Các triệu chứng trên những cây nhiễm các loại bệnh khảm do potyvirus có thể khác nhau, nhưng nói chung, cây ớt sẽ thể hiện một màu nhạt hơn trên tổng thể với những vân khảm (những vùng xanh nhạt và đậm xen kẽ) trên ít nhất một số lá cây, đặc biệt là trên các lá non. Cây ớt thường sẽ trở nên còi cọc, lá quăn, và quả bị méo mó cùng với vân khảm trên lá. Các triệu chứng có thể tương tự như bệnh do vi rút khảm dưa chuột gây ra.

NHẬN XÉT VỀ BỆNH

Tất cả những loại potyvirus ảnh hưởng đến cây ớt đều được lan truyền từ cây này sang cây khác bởi một số loài rệp. Rệp có thể truyền những vi rút này trong những khoảng thời gian rất ngắn (vài phút đến vài giờ). Loại hình hoạt động của rệp khiến vi rút lan truyền diễn ra khi rệp di chuyển mạnh qua ruộng ớt và thăm dò các mô của cây khi chúng bắt đầu ăn hại. Một khi rệp đã xâm lấn cây ớt, ổn định để ăn hại, việc truyền vi rút giảm mạnh. Do vậy, sự lan truyền thường rất nhanh. Nói chung, sự lan truyền potyvirus trong ruộng xảy ra khi hoạt động của rệp trong ruộng ở mức cao.

Tất cả các loại potyvirus ảnh hưởng đến ớt đều có phạm vi vật thể chủ rộng bao gồm cả những cây trồng khác và nhiều loài cây cỏ dại, cụ thể là những cây thuộc họ Cà (cà chua, khoai tây, cà pháo, và họ cà dược). Tồn tại những biến dạng khác nhau của potyvirus, một số trong đó khác biệt về khả năng gây bệnh cụ thể của chúng. Rất dễ tìm thấy những cây ớt nhiễm đồng thời nhiều loại potyvirus khác nhau và còn nhiễm vi rút khảm dưa chuột. Tuy phun diệt loài rệp trung gian sẽ không ngăn cản được lây nhiễm xảy ra, người trồng ớt vẫn nên cố gắng để quản lý mật độ của loài vật trung gian này khi có thể.

XỬ LÝ

Hiện đã có một số giống cây kháng bệnh được dẫn xuất từ những loài cây có quan hệ chặt chẽ với cây ớt, và những nỗ lực đang được thực hiện để phát triển nhiều loài kháng bệnh hơn. Nhìn chung, những nguồn gen kháng bệnh ở các loài ớt chuông nhiều hơn đối với Potato Y potyvirus, sau đó là Potyvirus khắc thuốc lá, tiếp theo là Potyvirus vằn ớt.

Chưa có cách kiểm soát bằng hóa chất hiệu quả được phát triển để trị các bệnh khảm do potyvirus ở California. Phạm vi tác động của những vi rút này là không thể dự đoán được theo các năm và địa điểm. Thuốc trừ sâu không có hiệu quả trong việc kiểm soát sự lan truyền của các vi rút này vì nó không giết chết rệp trước khi rệp có thể nhiễm và truyền vi rút sang cây.

Các tấm phủ phản quang được áp dụng cho cây trồng đã thể hiện sự hiệu quả trong việc xua đuổi loài rệp khỏi cây, do đó giảm nhẹ hoặc trì hoãn sự lây nhiễm vi rút.

Nguồn: sưu tầm.

BỆNH ĐỐM HOẠT TỬ TRÊN CÂY ỚT

BỆNH ĐỐM HOẠT TỬ TRÊN CÂY ỚT


Mầm bệnh: Vi rút đốm hoại tử (INSV) trong nhóm tospovirus

CÁC TRIỆU CHỨNG VÀ DẤU HIỆU

Triệu chứng trên những cây ớt nhiễm vi rút đốm hoại tử bao gồm các đốm vàng trên toàn bộ lá (bệnh úa vàng), các đốm chết (hoại) trên lá hoặc các cành non trên cùng, và nói chung là cây ớt còi cọc. Quả ớt lộ ra những đốm úa vàng, những vùng màu đỏ hoặc xanh được bao quanh bởi các quầng màu vàng, và những vùng đồng tâm mà có thể trở nên chết hoại. Các triệu chứng tương tự như bệnh gây ra bởi một loại tospovirus khác là Vi rút héo đốm cà chua (TSWV).

NHẬN XÉT VỀ BỆNH

Ở California, INSV chủ yếu có vật trung gian là bọ trĩ hoa tây phương. Khi bọ trĩ mang các loại tospo virus do ăn những cây bị nhiễm, chúng sẽ duy trì khả năng truyền vi rút trong phần đời còn lại của mình. INSV có phạm vi vật chủ gồm hầu hết là cây cảnh và không rộng như TSWV.

XỬ LÝ

Trong khi phun xịt diệt sinh vật trung gian bọ trĩ sẽ không ngăn chặn được những bệnh do vi rút này diễn ra, người trồng ớt vẫn nên cố gắng quản lý số lượng bọ trĩ nếu có thể.

Tư vấn kĩ thuật: 0933.067.033

Nguồn: sưu tầm.

BỆNH KHẢM DƯA CHUỘT

BỆNH KHẢM DƯA CHUỘT TRÊN CÂY ỚT


Mầm bệnh: Vi rút khảm dưa chuột cucumovirus (CMV)

CÁC TRIỆU CHỨNG VÀ DẤU HIỆU

Các triệu chứng trên những cây ớt nhiễm vi rút khảm dưa chuột cucumovirus có thể khác nhau, nhưng nói chung, cây thể hiện toàn bộ một màu sắc nhạt cùng với những hoa văn khảm (xen kẽ những vùng xanh nhạt và đậm) trên ít nhất một số lá cây, đặc biệt là trên các lá non. Thông thường, gân lá chính bị méo mó và hơi có hình dạng chữ chi. Cây ớt thường trở nên còi cọc, lá quăn, và bị khảm, và các lá già có thể phát triển những vùng hoại tử có hình dạng như lá sồi. Quả có thể bị dị hình và có những vòng đồng tâm hoặc vết đốm rõ rệt. Có thể rất khó để phân biệt chính xác những cây ớt nhiễm vi rút khảm dưa chuột cucumovirus với những cây bị nhiễm potyvirus. Nói chung, sự lây nhiễm vi rút khảm dưa chuột cucumovirus nghiêm trọng hơn lây nhiễm potyvirus. Tuy nhiên, những trường hợp lây nhiễm hỗn hợp thường rất phổ biến, và vi rút này và một hoặc nhiều potyvirus có thể lây nhiễm cho cây ớt một cách đồng thời.

NHẬN XÉT VỀ BỆNH

Vi rút khảm dưa chuột cucumovirus lan truyền từ cây này sang cây kia bởi sinh vật trung gian là rệp; nhiều loài rệp là những vật trung gian hoàn hảo. Rệp truyền vi rút khảm dưa chuột cucumovirus trong khi thăm dò các mô lá. Một khi rệp mang vi rút khảm dưa chuột cucumovirus, nó sẽ chỉ duy trì khả năng truyền loại vi rút này trong một thời gian ngắn (vài phút đến vài giờ); sự lan truyền của vi rút là cục bộ và rất nhanh chóng trong các ruộng ớt. Nói chung, sự lan truyền trong ruộng cây liên quan đến hoạt động tổng thể của rệp, chứ không phải sự hiện diện của các loài rệp xâm lấn.

Có một số biến dạng nguồn gây bệnh của loại vi rút này. Vi rút có một phạm vi vật thể chủ rộng lớn từ các cây trồng lá rộng cho đến các loài cây cỏ dại, và do đó, việc loại trừ các nguồn mang vi rút thường xuyên biến đổi không phải là một chiến lược xử lý khả thi.

XỬ LÝ

Hiện không có nguồn giống ớt kháng vi rút khảm dưa chuột cucumovirus nào. Những nổ lực đang được thực hiện để phát triển các giống ớt kháng bệnh, cả thông qua việc gieo trồng truyền thống lẫn bằng công nghệ sinh học. Việc loại bỏ các cây cỏ dại và sử dụng các tấm phủ phản quang để xua đuổi sâu bọ truyền bệnh có thể giảm sự tác động của loại bệnh này cho cây ớt.

Các chiến lược dùng thuốc hóa học là không hiệu quả. Các loại thuốc trừ sâu được hướng dẫn dùng để kiểm soát loài rệp trung gian không hiệu quả trong việc ngăn chặn loại vi rút này bởi vì chúng không thể giết chết rệp trước khi chúng truyền vi rút cho cây; tuy nhiên, người trồng ớt vẫn nên cố gắng quản lý số lượng sinh vật trung gian nếu có thể (để biết thêm thông tin, hãy xem RỆP HỒ ĐÀO XANH).

Nguồn: sưu tầm.